Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Cảnh giác với bệnh viêm khớp ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.55 KB, 10 trang )

Cảnh giác với bệnh viêm
khớp tự phát thiếu niên

Tổn thương xương khớp tuổi thiếu niên hiện nay là nhóm
bệnh rất hay gặp trong thực tế lâm sàng, diễn biến phức tạp,
khó nhận biết và nhìn chung vẫn còn gây rất nhiều khó khăn
cho các bác sĩ lâm sàng nói chung và các bác sĩ nhi khoa nói
riêng trong chẩn đoán, điều trị, theo dõi và tiên lượng bệnh.
Trong đó viêm khớp tự phát tuổi thiếu niên là một trong
những nhóm bệnh hay gặp nhất. Đây là nhóm bệnh tự miễn
dịch, nguyên nhân chưa rõ ở trẻ em, được định nghĩa là tình
trạng viêm khớp mạn tính kéo dài ít nhất 6 tuần, khởi phát
bệnh trước 16 tuổi.
Nguyên nhân gây bệnh chưa được rõ ràng, tuy nhiên người ta
thống nhất cho rằng bệnh có tính chất tự miễn với tình trạng
nhiễm khuẩn làm khởi động một loạt các quá trình trong hệ thống
miễn dịch. Bệnh thường khởi phát sau nhiễm virut, Chlamydia
mycoplasma, Streptococus, Salmonella, Shigella
Các thể bệnh viêm khớp tự phát
Thể bệnh hệ thống (systemic arthritis)
hay còn gọi là bệnh Still ở trẻ em:
chiếm tỷ lệ 10- 15% số ca với các
triệu chứng chính là sốt cao, nổi ban
màu hồng ở da và viêm khớp. Biểu
hiện sốt cao có đỉnh lên tới 39- 40 độ,
sau đó tự hạ nhiệt về bình thường, mỗi ngày từ 1 - 2 cơn. Viêm
khớp là triệu chứng không nhất thiết phải xuất hiện ngay từ khi
mới bị bệnh. Thường tổn thương viêm gặp ở vài khớp vừa và lớn
trong đó khớp thường gặp nhất là khớp gối (60%), sau đó đến
khớp cổ tay và khớp bàn ngón tay (55%), khớp cổ chân (45%).
Viêm khớp có thể đối xứng hoặc không. Triệu chứng nổi ban ở



Biểu hiện bàn tay bị vi
êm
nhi
ều khớp yếu tố dạng
thấp âm tính.
da dạng dát sẩn, màu hồng cá hồi thường xuất hiện quanh các
khớp khi sốt cao. Các triệu chứng khác như nổi hạch, gan lách có
thể to. Ngoài ra có thể gặp viêm các màng như màng tim, màng
phổi, màng bụng. Viêm màng ngoài tim với các biểu hiện như đau
ngực, khó thở, xuất hiện trong giai đoạn tiến triển của bệnh, có
tràn dịch màng ngoài tim. Viêm màng trong tim và viêm cơ tim
hiếm gặp hơn. Về tiến triển của bệnh rất đa dạng, có thể bệnh
nhân chỉ bị bệnh trong thời gian ngắn không để lại di chứng
nhưng cũng có thể bị di chứng biến dạng khớp nặng.
Viêm một khớp hay vài khớp (Oligoarthritis): đây là thể hay gặp
nhất với tỷ lệ khoảng 50% trường hợp, biểu hiện viêm từ 1 - 4
khớp trong 6 tháng đầu bị bệnh. Nếu số khớp viêm không tăng,
tức là vẫn dưới hoặc bằng 4 khớp sau 6 tháng đầu mắc bệnh thì
xếp vào nhóm viêm khớp dai dẳng. Trong nhóm này tuổi bị bệnh
thường khoảng từ 2 -3 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh nam nhiều hơn nữ
(nam/ nữ: 5/1), các khớp thường gặp bao gồm khớp gối, cổ chân,
khuỷu, cổ tay, các khớp nhỏ ở bàn tay và bàn chân; viêm khớp
không đối xứng. Có 25 - 50% trường hợp có biểu hiện ở mắt như
viêm màng mạch nhỏ, để lại những di chứng nặng nề ở mắt như
viêm dính mống mắt, xơ hóa đục giác mạc, đục nhân mắt Tiên
lượng bệnh thường tốt nếu chỉ có tổn thương khớp, khi có tổn
thương mắt thì tiên lượng kém.
Viêm nhiều khớp yếu tố dạng thấp âm tính (polyarthritis, RF
negative): có thể gặp mọi lứa tuổi, tuy nhiên phổ biến ở trẻ trên

10 tuổi với biểu hiện viêm từ 5 khớp trở lên trong vòng 6 tháng
đầu bị bệnh.
Viêm nhiều khớp yếu tố dạng thấp dương tính cũng hay gặp ở trẻ
gái trên 10 tuổi, các triệu chứng viêm khớp giống như bệnh viêm
khớp dạng thấp ở người lớn, đôi khi có các biểu hiện ngoài khớp
như hạt dưới da, viêm mạch. Nếu không được điều trị đúng cách,
bệnh dễ để lại di chứng biến dạng và phá hủy khớp nặng.
Viêm khớp thể viêm nhiều điểm bám tận, thường gặp ở trẻ lớn từ
12 - 16 tuổi, nam nhiều hơn nữ. Triệu chứng viêm khớp chủ yếu
ở các khớp ngoại vi như khớp háng, gối, cổ chân hay các khớp
nhỏ ở bàn chân thường không đối xứng. Những biểu hiện ở cột
sống thường xuất hiện sau khi có biểu hiện viêm các khớp ở chi
dưới. Tổn thương ngoài khớp thường gặp ở mắt là viêm mống
mắt cấp tính với biểu hiện mắt đỏ và đau. Thể này tiến triển
nhanh, dễ dẫn đến dính khớp gây tàn phế.
Viêm khớp vảy nến thường xuất hiện ở lứa tuổi từ 7 - 11 với các
biểu hiện ở khớp thường xuất hiện trước khi có các tổn thương ở
da. Thường viêm một vài khớp, có thể gặp ở cả khớp lớn và
khớp nhỏ, không đối xứng, trong đó khớp gối thường gặp nhất,
sau đó đến khớp ngón tay, ngón chân. Tiến triển của thể bệnh
này rất đa dạng, có trường hợp những tổn thương khớp rất nhẹ,
nhưng cũng có những trường hợp tổn thương khớp nặng gây
dính, biến dạng khớp.
Điều trị viêm khớp tự phát thiếu niên
Mục đích của điều trị là kiểm soát tiến triển của bệnh càng sớm
càng tốt nhằm hạn chế đến mức tối đa những thương tổn gây
phá hủy và biến dạng khớp, tối ưu hóa các vận động khớp nhằm
đạt tới chức năng khớp bình thường cho bệnh nhân. Điều trị bao
gồm các biện pháp không dùng thuốc, dùng thuốc và điều trị
ngoại khoa.

Các biện pháp không dùng thuốc:
Vật lý trị liệu nhằm duy trì đến mức tối đa tầm vận động của
khớp, tránh cứng khớp, dính khớp. Có thể dùng các biện pháp
như sóng ngắn, tia hồng ngoại, tắm suối khoáng, tập các bài tập
phục hồi chức năng vận động khớp Tuy nhiên trong thời gian
đau nhiều có thể tạm thời bất động khớp nhưng cần lựa chọn tư
thế sao cho giữ được biên độ vận động lớn nhất.
Cố gắng duy trì các sinh hoạt thường ngày của trẻ như khuyến
khích trẻ tham gia các hoạt động xã hội, học tập ở trường lớp
bình thường như những đứa trẻ khác. Tuy nhiên trong những đợt
tiến triển nên cho trẻ nghỉ ngơi, chế độ dinh dưỡng tốt và đặc biệt
có giấc ngủ đầy đủ.
Các biện pháp dùng thuốc bao gồm 3 nhóm thuốc chính: thuốc
giảm đau thông thường, thuốc chống viêm giảm đau và các thuốc
điều trị cơ bản tức thuốc tác động vào hệ thống miễn dịch của cơ
thể nhằm làm giảm, khống chế quá trình viêm khớp.
Do đặc thù bệnh viêm khớp thiếu niên tự phát khởi phát ở tuổi
thiếu niên, tổn thương nhiều vị trí, có thể có những biến chứng
ảnh hưởng xấu đến việc học tập, sinh hoạt của trẻ nên việc điều
trị cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên khoa như thấp
khớp học, nhi khoa, phục hồi chức năng, chuyên gia tâm lý kết
hợp với sự chăm sóc của gia đình và hỗ trợ của nhà
trường

×