Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Miền Bắc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kĩ thuật pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.96 KB, 5 trang )

Miền Bắc xây dựng bước đầu cơ sở vật chất-kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội(1961-1965)


1. Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng (9 - 1960)

Từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã
diễn ra. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết. Đại
hội đã kiểm điểm công tác lãnh đạo của Đảng trong 10 năm kể từ Đại hội II
(2/1951), thảo luận và vạch ra đường lối đấu tranh cho cả hai miền trong giai đoạn
mới, xác định nhiệm vụ mới của cách mạng cả nước và của từng miền.

Đại hội đã xác định rõ nhiệm vụ chiến lược của cả hai miền là: Xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, tăng cường mau chóng lực lượng của miền Bắc về mọi
mặt, và “trách nhiệm của cách mạng ở miền Nam là phải trực tiếp làm nhiệm vụ
đánh đổ ách thống trị của Đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai để giải phóng miền Nam,
hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước”.

Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương mới gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy
viên dự khuyết; bầu Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Đảng, và đồng chí Lê
Duẫn làm Bí thư thứ nhất.

Đại hội đã đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình xác định đường lối cách
mạng ở hai miền Nam – Bắc, định hướng cho sự phát triển của cách mạng Việt
Nam trong giai đoạn 1961 – 1975.

2. Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965)

Miền Bắc là nền tảng, gốc rể đảm bảo cho sự thành công của cuộc đấu tranh giành
độc lập và thống nhất tổ quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9/1960) đã xác định: Phải tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, biến


miền Bắc thành căn cứ địa vững chắc cho các mạng cả nước. Để thực hiện nhiệm
vụ đó, đại hội đã đề ra kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) nhằm bước đầu
công nghiệp hóa nước nhà.

Từ năm 1961 đến năm 1965, nhân dân miền Bắc đã dồn sức thực hiện kế hoạch
năm năm lần thứ nhất với nhiều phong trào thi đua sôi nổi như trong nông nghiệp
có phong trào “đại phong”, trong công nghiệp có phong trào "duyên hải", trong
quân đội có phong trào "ba nhất", trong thủ công nghiệp có phong trào "thành
công" ….

2.1. Công nghiệp

Nhà nước đã thực hiện những biện pháp và chính sách nhằm đào tạo nguồn nhân
lực có trình độ kỹ thuật và quản lý, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả, cải tiến
kỹ thuật… Kết quả sau 5 năm thực hiện, ngành công nghiệp miền Bắc đã có
những bước phát triển đáng kể:

Tính đến năm 1965, ngành điện tăng gấp 10 lần so với năm 1995; ngành cơ khí
tăng bình quân hàng năm là 30%, một số nhà máy lớn đã được hoàn thành và đưa
vào sử dụng như: khu gang thép Thái Nguyên, nhà máy hóa chất Việt Trì, phân
đạm Bắc Giang, Supper phốt phát Lâm Thao, …

Công nghiệp phục vụ nông nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ, góp phần thúc
đẩy quá trình cơ giới hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.

2.2. Nông nghiệp

Nhiệm vụ trọng tâm của nông nghiệp là giải quyết vấn đề lương thực đồng thời coi
trọng cây công nghiệp, chăn nuôi, mở mang nghề cá, nghề phụ phấn đấu nâng
cao mức sống của người nông dân, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền Bắc.


Nông dân miền Bắc đã tích cực hưởng ứng những chủ trương của Đảng, có trên
90% hộ nông dân đã vào hợp tác xã, trong đó có 50% là hợp tác xã bậc cao; năm
1960, toàn miền Bắc có 4.300 hợp tác xã bậc cao thì đến năm 1965 đã tăng lên
18.600 hợp tác xã, năng suất tăng: năm 1965, có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt
năng suất 5 tấn/ha/năm.

2.3. Văn hóa, giáo dục và y tế

Đảng và Nhà nước chủ trương đẩy mạnh phát triển văn hóa, giáo dục để xây dựng
một nền văn hóa mới và con người mới Việt Nam.

Trong 5 năm (1961 - 1965) số trường phổ thông tăng từ 7066 lên 10.294 trường,
số trường đại học từ 9 trường lên 18 trường; ngoài ra nhà nước còn ban hành các
chế độ, chính sách phát triển giáo dục … Nhờ vậy, số học sinh phổ thông tăng 3,5
lần, số sinh viên đạt 34.000 người, 6 vạn học sinh trung cấp và cơ bản đã xóa được
nạn mù chữ ở miền Bắc.

Mạng lưới y tế được xây dựng rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, tính đến năm
1965, đã có 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã đồng bằng và 78% số xã miền
núi có trạm y tế với đội ngũ y bác sĩ, tăng gấp 5 lần so với năm 1960 (1525 bác sĩ,
8043 y sĩ).

Đời sống văn hóa được nâng cao, các tệ nạn xã hội ngày càng giảm.

2.4. Quân sự, quốc phòng

Trong giai đoạn 1961 - 1965, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung cho việc xây dựng
quân đội chính qui hiện đại theo kế hoạch quân sự lần thứ hai để thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Lực lượng vũ

trang 3 thứ quân lớn mạnh không ngừng cả về chất lượng và số lượng.

Để đảm bảo yêu cầu bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam kháng chiến
chống Mĩ cứu nước, Chính phủ đã cho cải tạo, nâng cấp và mở rộng hệ thống giao
thông chiến lược ở cả 2 miền Nam - Bắc.
Công tác chi viện cho miền Nam trong giai đoạn 1961 - 1963 bắt đầu được tăng
cường: tổng cộng có 4 vạn cán bộ được chuyển vào miền Nam. Đến năm 1964,
các đơn vị cơ động cấp trung đoàn đã được đưa vào Nam.

×