Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Vấn đề văn bản của truyện ngắn Chữ người tử tù ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.97 KB, 4 trang )

Vấn đề văn bản của truyện ngắn 'Chữ người tử tù'


Truyện ngắn "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân đăng lần đầu tiên trên tạp chí
Tao Đàn số 29 năm 1939, với tên gọi "Giòng chữ cuối cùng". Sách giáo khoa Ngữ
văn 11 hiện nay sử dụng văn bản trích từ tập "Vang bóng một thời", xuất bản năm
1940. Giữa hai bản in này, có sự khác biệt khá lớn.

Rất tiếc, sách giáo viên và các sách tham khảo khác chưa chú ý đúng mức đến sự
khác biệt này. Chúng tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu Chữ người tử tù túc góc độ
văn bản học. Vì công việc này sẽ cấp thêm cho bạn độc một hướng thưởng thức
văn tài cùng sự kì khu của Nguyễn Tuân. Đúng hơn chúng tôi sẽ kê ra nhiều căn
cứ chứng tỏ Nguyễn Tuân không chỉ bổ sung hoặc sửa đổi một số câu chữ, mà
thực chất tác giả đã viết lại tác phẩm Giòng chữ cuối cùng của mình [1].

So sánh hai văn bản, chúng tôi nhận thấy có mấy sự khác biệt sau đây:

1. Về tên truyện

Tên gọi Chữ người tử tù xuất hiện lần đâu tiên năm 1940, do chính Nguyễn Tuân
đặt. Năm 1982 tuyển tập Nguyễn Tuân ra đời, tên gọi Chữ người tử tù vẫn được
giữ nguyên. Vậy sự khác biệt giữa nhan đề của bản in đầu tiên với các bản in sau
đó đã trở thành sự thực không thể phủ nhận được. Vấn đề còn lại ở chỗ: chúng
khác nhau ra sao và có ý nghĩa gì?

Tôi thấy, sự khác biệt giữa Giòng chữ cuối cùng với Chữ người tử tù không chỉ
giản đơn về mặt câu chữ, mà chủ yếu ở cách thể hiện.

Nhan đề đầu tiên đậm tính báo chí và nghiêng về thông tin. Nhan đề thứ hai thiên
về bộc lộ quan niệm. Nhan đề thứ nhất dồn trọng tâm vào “chữ”, “chữ” trở thành
sự kiện; nhan đề thứ hai chú ý đến quan hệ giữa chữ và người, giữa chữ và cảnh.


Đặt nhan đề thứ nhất, Nguyễn Tuân nhấn mạnh vào tính chất của sự kiện, đặt nhan
đề thứ hai, Nguyễn Tuận tô đậm yếu tố hoàn cảnh. Mỗi nhan đề có một vẻ đẹp
riêng, xét trên phương diện nghĩa.

2. Về cốt truyện

Khi so sánh hai văn bản vừa nêu, chúng tôi thấy ở văn bản Chữ người tử tù,
Nguyễn Tuân đã lược đi rất nhiều tình tiết, sự kiện.

Chẳng hạn, ở văn bản Giòng chữ cuối cùng có đoạn “Người ngồi đấy, đầu đã điểm
hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn nheo của một bộ mặt khổ sở, bây giờ
đã biến đi đâu. Ở đấy, bây giờ chỉ là mặt nước ao xuân. Bình lặng, kín đáo và êm
nhẹ. Ở đấy, trong giây lát lại lập loè chút ánh sáng của con tâm còn thơm sạch.
Người ta phải lấy làm lạ hỏi tại sao ngục quan lại không có một cái đầu trâu, một
cái trán dơi và một cái mặt khỉ. Trong thế giới Khuyển Ưng, Khuyển Phệ, cái bộ
mặt quắc thước, nhẹ nhõm kia thực là một sự lạ lùng. Sự lạ lùng đó, trong bọn
quan lại, người bề trên không chịu được và kẻ ty tiểu cũng không chịu được”.
Nhưng đến bản Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân chỉ giữ lại ba câu: “ Người ngồi
đấy, đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu. Những đường nhăn của một bộ mặt tư
lự, bây giờ đã biến mất. Ở đấy chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng kín đáo và
êm nhẹ”. Rõ ràng, Nguyễn Tuân đã bỏ hai tình tiết: dao động nội tâm và đối thoại
tư tưởng để làm nổi bật ngoại hình cùng tâm trạng hiện thời của ngục quan.

Văn bản Giòng chữ cuối cùng khai thác thái độ của người bề trên và kẻ ty tiểu
trước vẻ mặt lạ lùng của viên quản ngục. Còn văn bản Chữ người tử tù thì không
xét tới những phương diện đó.

Thêm ví dụ nữa. Ở văn bản Giòng chữ cuối cùng, sau khi ngục quan hỏi Huấn
Cao: “Ngài muốn gì xin cho biết”, người kể chuyện liền bình giá để giải thích
hành động trả lời của ông Huấn. Qua sự bình giá của người kể chuyện, ta thấy

Huấn Cao có khẩu khí của nhân vật Từ Hải, và giọng văn Nguyễn Tuân gần với
giọng Truyện Kiều: “Ông Huấn Cao là người không chịu giam mình trong lề thói
hiện tại của một triều chính; chí ông là muốn vẫy vùng, muốn rạch sơn hà ra làm
hai nửa và dựng riêng bờ cõi mình ở một góc trời Dưới mắt ông Huấn, còn có ai
là đáng kể nữa”. Đến Chữ người tử tù thì đoạn bình giá ấy không còn. Tôi xem
việc sửa văn của Nguyễn Tuân lần này rất hợp lí. Vì khi bỏ đoạn văn có tính chất
sáo mòn kiểu đó đi, mạch văn sẽ đỡ lộ, mà nội dung cuộc đối thoại cũng nổi bật
hơn.

Cùng với việc lược đi một số sự kiện, ở văn bản Chữ người tử tù chúng tôi còn
thấy Nguyễn Tuân đã thêm rất nhiều tình tiết mới. Ví dụ, ở Giòng chữ cuối cùng
tác giả viết: “để mai ta dò ý tứ hắn xem sao”, nhưng đến Chữ người tử tù thì lại
thành “để mai ta dò ý tứ lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”. Tôi nghĩ chỗ này Nguyễn
Tuân đã chúng tỏ được sự tinh tế. Bởi vì qua sự lặp lại của sự kiện, Nguyễn Tuân
đã làm nổi bật đức tính kiên nhẫn cùng tấm lòng thiết tha của ngục quan.

Giòng chữ cuối cùng viết: “…từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có
phần hậu hơn trước nữa…”. Chữ người tử tù giữa nguyên đoạn ấy nhưng bổ sung
thêm một chi tiết nữa: “… từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có
phần hậu hơn trước, duy chỉ có y là không để chân vào buồng giam ông Huấn”.
Đọc nhanh thì thấy sự bổ sung này không mấy quan trọng. Nhưng nếu ngẫm kĩ, sẽ
vỡ lẽ người kể rất quan tâm tới thái độ và hành ứng xử của ngục quan trước lời lẽ
khinh bạc đến điều của ông Huấn. Người kể tái hiện kết quả tác động của câu nói
đượm vẻ ngang tàng kia cũng để cụ thể hoá cái uy riêng ở nhân vật Huấn Cao vậy.

Đoạn khác, Giòng chữ cuối cùng ghi: “Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút
cuối cùng vẫn dài như nghìn năm ở ngoài”. Văn bản Chữ người tử tù thêm:
“Trong đề lao, ngày đêm của tử tù đợi phút cuối cùng, đúng như lời thơ xưa, vẫn
đằng đẵng như nghìn năm ở ngoài”. Chi tiết “thơ xưa” góp phần tạo nên không khí
cổ kính, vang bóng cho truyện. Còn từ “đằng đẵng” thì lại gánh vác nhiệm vụ thời

gian hoá tâm trạng nhân vật.

Chúng tôi thấy văn bản Chữ người tử tù tô đậm vẻ đẹp và giá trị của chữ Huấn
Cao. Hơn nữa lại chú ý tả bức tranh chữ đó trong tương quan với tính cách của
nhân vật. Đoạn in nghiêng sau thể hiện rõ điều đó: “Biết đọc vỡ sách thánh hiền,
từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia
được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết. Chữ ông
Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Tính ông Huấn Cao vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông
ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời. Viên
quản ngục khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền mình
mà không biết làm thế nào mà xin được chữ…”

Giòng chữ cuối cùng không lí tưởng hoá nhân vật bằng cách trên, mà chỉ tập trung
tả sở nguyện và tâm trạng của viên quản ngục. Thử đọc lại đoạn văn ban đầu:
“ Biết đọc vỡ sách thánh hiền, từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quản
ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay
ông Huấn Cao viết. Y khổ tâm nhất là có một ông Huấn Cao trong tay, dưới quyền
mình mà không biết làm thế nào mà xin được chữ”. Qua đây ta thấy, Nguyễn Tuân
ngày càng chăm chút cho nhân vật chính. Ông đã làm đẹp nhân vật của mình bằng
cách ghi lại ấn tượng về nét chữ và bằng thủ pháp có phần cường điệu. Tôi xem
cái điệu đà hay cái duyên riêng của Nguyễn Tuân phần nào đã toát lên từ văn cách
luôn đẩy mọi sự vật, sự việc đến giới hạn tột cùng của nó.

×