Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đế quốc dầu lửa Mỹ-Nga-Bán đảo Ả rập sau Thế chiến II 1 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.72 KB, 6 trang )

Đế quốc dầu lửa Mỹ-Nga-Bán đảo Ả rập sau
Thế chiến II
1

Đức đầu hàng tháng 5 năm 1945. Ba tháng sau Nhật cũng buông khí giới. Bán
đảo Ả Rập qua một giai đoạn mới, giai đoạn độc lập. Trái hẳn với Thế chiến trước,
bản đồ Ả Rập không bị vẽ lại: ta vẫn thấy những đường ranh giới thẳng băng hàng
mấy trăm cây số, chẳng theo địa hình địa thế gì cả, rõ ràng là thực dân Anh, Pháp
vạch với nhau trên giấy từ cuối Thế chiến thứ nhất, y như họ cầm đao mà cắt một
ổ bánh bông lan vậy. Thật kỳ cục? Một sự vô lý cùng cực như vậy mà tồn tại
không biết tới bao giờ nữa. Chỉ có biên giới Transjordanie là thay đổi một chút,
nhưng không phải là hậu quả của Thế chiến mà là hậu quả của chiến tranh Israel -
Ả Rập năm 1948 - 1949. Một điểm khác nữa: các miền tô xanh hay đỏ của Anh
hay Pháp trước kia, bây giờ đều trắng. Bán đảo Ả Rập đã độc lập, nhưng chưa thấy
thống nhất.

Nó đã độc lập, đã thức tỉnh, nên biến cố trong hai chục năm nay xảy ra rất nhiều,
gấp cả chục lần cái thời nó thiêm thiếp ngủ dưới bàn tay sắt của Anh, Pháp. Từ
đông qua tây, từ bắc tới nam, miền nào cũng phát sinh phong trào này phong trào
khác (xứ Ả Rập Saudi tương đối yên lặng hơn cả), chằng chịt với nhau, càng theo
dõi càng thấy rối như tơ vò: Cho nên để giúp độc giả có một tổng quan, chúng tôi
nghĩ cần nêu trước đây những hậu quả quan trọng của Thế chiến thứ nhì; những
hậu quả đó như những đầu mối chúng ta cần nắm vững để khỏi lạc lối trong cái mê
hồn trận là bán đảo Ả Rập trong giai đoạn tranh giành nhau ảnh hưởng giữa Nga
và Mỹ.

1. Đọc chương trên, độc giả đã nhận thấy các quốc gia Ả Rập muốn gỡ cái ách
của Anh (Pháp đã thất trận, không đáng kể), và ở phía đông, Iraq đã nổi dậy, ở
phía tây, Ai Cập cũng rục rịch nổi dậy. Cả hai nơi, phong trào cách mạng đều do
quân nhân khởi xướng, tổ chức. Sở dĩ vậy vì hai nước đó trước chiến tranh, đã
được coi là độc lập, nghĩa là có chính phủ gọi là tự trị, có quân đội, dù là bị Anh


kiểm soát; họ có tướng, tá, có trường võ bị, có khí giới.[23].

Tuy hai phong trào cách mạng ở Ai Cập và Iraq đều thất bại, nhưng các sỹ quan
vẫn giữ vững tinh thần và hết chiến tranh họ nắm lấy cơ hội mà tiếp tục một cách
mạng chính trị và xã hội.

Từ năm 1948 (chiến tranh Israel - Ả Rập) trở đi, họ lần lần nắm được chính
quyền, thay thế các vua chúa hủ lậu, thối nát. Ở Damas là thống chế Zaim, đại tá
Hennaoui và đại tá Chi Chakly; ở Le Caire là tướng Neguib và đại tá Nasser; ở
Amman (Jordani) là tướng Abou Nuwar; ở Bagdad là tướng Kassem. Có người
thành công, giữ quyền được lâu, có người thất bại, mới cầm quyền đã bị lật; nhưng
xét chung họ đều có nhiệt huyết và khá liêm khiết vì họ thực là những nhà cách
mạng. Họ là phần tử tiến bộ trong nước, đa số còn trẻ, có tinh thần xã hội. Họ thực
tình tủi nhục vì thấy cả khối Ả Rập phải thua 650.000 người Do Thái (năm 1949);
họ phẫn uất vì thấy bọn vua chúa trụy lạc, coi quốc gia là của riêng, lo vơ vét,
dùng bọn tôi tớ vào những chức cao (tên tài xế của Farouk được đặc cách mang
lon đại tá mặc dầu không hề học về quân sự); họ đau đớn vì thấy hạng dân đen bị
bóc lột, sống điêu đứng, khổ hơn con vật, mất cả tư cách con người, nhưng tới nay
họ vẫn chưa thực hiện gì được nhiều.

2. Họ gần gũi với nhân dân, hiểu nguyện vọng của nhân dân; sống giản dị,
thường tiếp xúc với nhân dân, có thói hay diễn thuyết, họp báo tuyên bố, giảng
giải đường lối của họ, khác hẳn bọn vua chúa sống trong thâm cung, lâu lâu mới ra
mắt quốc dân một lần. Ngay các vương quốc lớp mới như vua Hussein xứ Jordani
cũng theo trào lưu. Vì vậy mà sân khấu chính trị chuyển từ những kinh đô cổ như
Ryhad (Ả Rập Saudi) tới những thị trấn đông đúc như Le Caire, Bagdad, Damas,
Beyrouth, nhất là Le Caire, "ngã tư quốc tế", nơi tụ họp đủ các đại diện các cường
quốc và của thế giới thứ ba, lặng lẽ của châu Phi tiếp với cảnh cùng khốn phẫn uất,
hung hăng của châu Á.


3. Sau Thế chiến thứ nhất Ả Rập chỉ đổi chủ, Thổ đi thì Anh, Pháp, Ý tới. Sau
Thế chiến thứ nhì, Anh, Pháp, Ý cũng phải cuốn gói. Ý không xứng đáng làm chủ
Tripolitaine, và người ta thành lập ở đó một vương quốc độc lập: Libye. Pháp phải
trả độc lập cho Syrie và Liban. Anh hy vọng Syrie và Liban sẽ liên kết với Jordani,
với Iraq, hai xứ này còn chịu ảnh hưởng của Anh, và như vậy Anh sẽ kiểm soát
được miền lưỡi liềm phì nhiêu. Nhưng trái với ước vọng của mình, Anh mất gần
hết ảnh hưởng ở các nước đó, may lắm còn giữ được quyền lợi dầu lửa ở Iraq.
Theo chúng tôi, có ba nguyên nhân:

- Anh rất khéo xử ở Ấn Độ, Miến Điện mà lại vụng xử ở Ai Cập, cố bám lấy
quyền lợi, không chịu nhả ra đúng lúc, cho nên bị Ai Cập ghét mà các quốc gia Ả
Rập khác cũng không ưa,

- Anh cho Do Thái thành lập một "quê hương" ở Palestine, làm cho tất cả các
dân tộc Hồi giáo đều oán Anh,

- Các quốc gia Ả Rập thấy Anh đã suy, không giúp đỡ gì được mình trong việc
phát triển kinh tế, cả trong việc thành lập một quân đội, nên hướng về các cường
quốc khác.

4. Các cường quốc này là Mỹ rồi tới Nga.

Chiến tranh chưa kết liễu, Roosevelt đã bảo Ibn Séoud: "Thời của các đế quốc
chính trị đã cáo chung". Và từ năm 1949, Mỹ luôn luôn thúc Anh phải rút lui khỏi
Ai Cập. Anh mới đầu làm ngơ, sau đành phải nghe lời, năm 1954, hứa sẽ rút dần
quân đội ra khỏi kênh Suez, năm 1956 cho Sudan thành một nước Cộng hòa độc
lập.

Ở Ả Rập Saudi, như chúng ta đã biết, Mỹ là "khách hàng" duy nhất của Ibn
Séoud, Anh không có chút ảnh hưởng gì cả.


Vậy chỉ còn lại Jordani và Iraq. Năm 1957, nhân có nhiều cuộc xáo động trong
nước, vua Hussein xứ Jordani giải chức viên thiếu tá Anh Glubb, rồi yêu cầu Mỹ
giúp. Mỹ lần lần hất Anh ở quốc gia đó.

Ở Iraq, Mỹ đã đặt chân được lên Bagdad, Bassorah từ hồi chiến tranh, khi đại
úy James, con trai của tổng thống Roosevelt, đem quân lại tiếp Anh (1941); năm
1954 Mỹ lại gửi một phái bộ quân sự quan trọng tới Bagdad; và năm 1958, bao
nhiêu kẻ thân Anh từ Hoàng gia Iraq tới thủ tướng Nouri Said đều bị cách mạng
giết hết. Iraq từ đó đứng về phe Nga hoặc phe Ai Cập với Syrie và Liban.

Tóm lại cựu thuộc địa của Anh ở Ả Rập thoát li lần lần, Anh cứ rút lui hoài và
khi Mỹ theo "chính sách Eisenhower" (1957) thì ảnh hưởng của Anh đã bị Mỹ
đánh bạt. Dĩ nhiên, các công ty dầu lửa Mỹ lần lần len lỏi vào mà chia phần với
các công ty Anh.

Tháng 11 năm 1951 Mỹ đã có các công ty Aramco, Bahrein Petroleum, Pacific
Western Oil. American Independant Oil, mà còn chiếm thêm được 50% cổ phần
trong công ty Koweit Oil. Qua đầu năm sau, họ xâm nhập vào được thành trì kiên
cố của công ty Anh Iraq Petroleum, nắm 24% cổ phần. Rồi cuối năm 1954, sau vụ
Iran quốc hữu hóa công ty Anglo Iranian Petroleum, họ chiếm được 40% cổ phần
trong công ty mới Iranian Oil thay thế công ty cũ. Vậy là năm 1925 Anh kiểm soát
được gần hết dầu lửa ở Tây Á và Trung Á, tới năm 1946, chỉ còn giữ được 57%,
qua năm 1956, chỉ còn giữ được 35%; còn Mỹ năm 1933 chưa có gì mà năm 1946
đã giành được 35% và mười năm sau, giành được 58%. Thế của Anh, Mỹ đã đảo
ngược lại.

Ấy là chưa kể những số tiền mà Mỹ viện trợ cho Ai Cập (40 triệu Mỹ kim năm
1953), Jordani, Thổ, Iran. Cho nên chính một nhân vật quan trọng của Mỹ đã bảo
sự thịnh suy của Mỹ tùy thuộc miền Tây Á và Trung Á; và Tổng thống

Eisenhower tuyên hố: "Phải lấp cái chỗ trống ở Tây Á và Trung Á cho kỳ được";
nghĩa là Anh, Pháp đã đi rồi, miền đó hóa "trống", Mỹ phải tìm mọi cách nhảy vào.

5. Eisenhower đã hớ, dùng một danh từ rất vụng về "chỗ trống" làm cho người
Ả Rập phẫn uất. "Chỗ trống" là nghĩa làm sao? Bộ cả cái bán đảo Ả Rập là đất
hoang, không người ư? Như xứ Ả Rập Saudi kia, mỗi cây số vuông trung bình chỉ
có bốn người dân, bảo là chỗ trống thì còn tạm nghe được; nhưng còn những miền
ở phía bắc, nơi mà mỗi cây số vuông trung bình có tới 830 người, nơi mà nhiều thị
trấn lúc nhúc cư dân, (Le Caire hai triệu dân) và mỗi năm lại có 400.000 trẻ em ra
đời, mà ông ta bảo là chỗ trống! Bộ ông ta coi dân tộc Ả Rập không phải là người
hay sao! Rõ ràng là Mỹ đẩy Anh, Pháp đi chỉ để chiếm địa vị của họ. Ló cái đuôi
Istéamar (tiếng Ả Rập nghĩa là: Thực dân Tây phương) ra rồi. Và người Mỹ càng
đầu tư vào nhiều bao nhiêu thì người Ả Rập càng thấy hoặc ngại rằng mình bị trói
buộc, bị trục lợi bấy nhiêu. Các báo chí Ai Cập nổi lên công kích Mỹ. Một ký giả
viết: "ông Dulles ạ, ông tính mua chuộc chúng tôi, bằng cái điểm Tư[24] của các
ông, nhưng chính các ông cần được hưởng một điểm Tư tinh thần", nghĩ là tinh
thần các ông còn kém lắm, để chúng tôi viện trợ cho. Một ký giả khác tiếp lời,
giọng cay độc hoá: "Các ông có hạm đội thứ VI, giá có một giác quan thứ VI thì
tốt hơn", nghĩa là các các ông chỉ ỷ mạnh chứ sự thực ngốc lắm.

Dân tộc Ả Rập sau non một thế kỷ bị thực dân Tây phương đô hộ, không ưa
người da trắng; họ có tinh thần tôn giáo rất mạnh, nên cũng không ưa Nga, nhưng
thấy Mỹ như vậy, họ đành hướng về Nga vậy. Ai Cập, Syrie, Yemen, rồi Iraq, nhờ
Nga viện trợ vì chỉ có Nga mới đương đầu nổi với Mỹ. Từ cuối Thế chiến, nước
Nga vẫn mong được vậy, nhưng mắc lo cho xong nội bộ đã, nay Nga rảnh tay rồi,
xin sẵn sàng giúp đỡ. Nga cho là mình hiểu các dân tộc Hồi giáo hơn Mỹ: "Chúng
tôi có sáu tiểu bang Hồi giáo dân số gồm hai chục triệu (có sách nói bốn chục) mà
các tiểu bang đó được hoàn toàn tự trị, mỗi ngày một phát đạt; chúng tôi tôn trọng
tôn giáo của họ, tức tôn giáo các bạn, các bạn cứ tin chúng tôi, rồi các bạn sẽ thấy
cách thức chúng tôi giúp các bạn khác cách thức bọn thực dân Mỹ ra sao.


"Vả lại chính chúng tôi bốn chục năm trước cũng là một nước kém phát triển
như các bạn, bây giờ đã vượt Anh, Pháp xa, không kém Mỹ, Spoutnik của chúng
tôi đã lượn trên không trung đấy. Hỏa tiễn liên lục địa của chúng tôi làm cho kẻ
thù của chúng tôi - của chúng ta chứ - hoảng rồi đấy. Các bạn cần cái gì, chúng tôi
cũng giúp được hết. Cần tiền, cần khí giới ư? Sẵn sàng. Hay cần xưởng máy, cần
nhà thương, trường học? Rất dễ mà. Chúng tôi đào tạo dư kỹ thuật gia để phòng
lúc các bạn cần tới họ. Họ tài giỏi hơn Anh, Mỹ mà lại còn nói thạo ngôn ngữ của
các bạn nữa. Và xin các bạn nhớ: Chúng tôi chỉ đặt mỗi điều kiện này: là chẳng có
điều kiện nào cả".

Đại diện Nga Rachidov vừa nói xong, thính giả Ai Cập vỗ tay muốn rung
chuyển cả phòng họp. Chưa bao giờ được nghe một ông Anh, Mỹ nói như vậy.
Thật là bùi tai.

×