Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

MỸ XÂY DỰNG MỘT CHÍNH PHỦ QUỐC GIA 2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.43 KB, 6 trang )

MỸ XÂY DỰNG MỘT CHÍNH PHỦ QUỐC GIA
2


Trong số các thành viên tích cực nhất có hai người đến từ bang Pennsylvania:
Gouverneur Morris - người đã thấy cần phải có một chính quyền liên bang, và
James Wilson - người đã lao động không mệt mỏi vì tư tưởng quốc gia. Bang
Pennsylvania cũng đã bầu Benjamin Franklin khi ông sắp kết thúc sự nghiệp phi
thường phụng sự nhân dân và đạt những thành tựu khoa học rực rỡ. Từ bang
Virginia còn có James Madison, một chính khách trẻ tuổi có suy nghĩ thực tế, một
người am tường chính trị và lịch sử. Theo lời của một người đồng sự thì xét từ góc
độ siêng năng và đầu óc thực tế thì đây là một người am hiểu tường tận nhất về
bất kỳ một điểm tranh luận nào. Madison được công nhận là cha đẻ của Hiến pháp.

Bang Masachusetts cử hai đại diện tới là Rufus King và Elbridge Gerry, những
thanh niên đầy năng lực và kinh nghiệm. Roger Sherman, từ anh thợ đóng giày trở
thành thẩm phán, là một trong số các đại biểu của bang Connecticut. Đại diện cho
bang New York có Alexander Hamilton, người đã đề xuất tổ chức hội nghị. Vắng
mặt tại hội nghị có Thomas Jefferson - khi đó ông là công sứ đại diện cho Hoa Kỳ
tại Pháp, và John Adams - đang nắm giữ chức vụ như Jefferson ở nước Anh.
Trong số 55 đại biểu thì thanh niên chiếm đa số với độ tuổi trung bình là 42.

Đại hội Lục địa đã ủy quyền cho Hội nghị thảo các điều sửa đổi những Điều khoản
Liên bang, nhưng, như Madison đã viết sau này, các đại biểu với niềm tin mạnh
mẽ vào đất nước của họ đã gác các điều khoản sang một bên và tập trung xây dựng
một hình thức chính quyền hoàn toàn mới.

Họ đã nhận thấy điều vô cùng cần thiết là hài hòa hai cấp chính quyền khác nhau -
chính quyền địa phương hiện có của 13 bang bán độc lập, và chính quyền trung
ương. Họ đã thông qua nguyên tắc khẳng định tất cả mọi chức năng và quyền lực
của chính phủ thống nhất - hoàn toàn mới và mang tính cởi mở - phải được xác


định và công khai cẩn thận trong khi tất cả những chức năng và các quyền lực
khác cần phải được hiểu là thuộc về các bang. Nhưng do hiểu rõ chính phủ trung
ương cần phải có quyền lực thực tế nên các đại biểu cũng nhất trí là chính phủ đó
phải được trao quyền - đúc tiền, quản lý thương mại, tuyên bố chiến tranh và thiết
lập hòa bình cùng những quyền khác.

TRANH LUẬN VÀ THỎA HIỆP

Các chính khách nhìn xa trông rộng của thế kỷ XVIII từng nhóm họp ở
Philadelphia là những người trung thành với khái niệm cân bằng quyền lực trong
chính trị của Montesquieu. Nguyên tắc này đã được củng cố thêm nhờ thực tiễn
diễn ra ở thời kỳ thuộc địa và qua những tác phẩm của John Locke đã trở nên quen
thuộc đối với hầu hết các đại biểu dự hội nghị. Những ảnh hưởng như vậy đã củng
cố niềm tin vững chắc rằng cần phải thiết lập ba nhánh chính quyền ngang bằng và
tương hỗ lẫn nhau. Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp phải được cân bằng
một cách hài hòa sao cho không một cơ quan nào lại có thể giành được thế áp đảo.
Các đại biểu cũng nhất trí cơ quan lập pháp, tương tự như các cơ quan lập pháp
thuộc địa và Nghị viện Anh, phải là lưỡng viện.

Trong hội nghị đã có sự nhất trí cao về những điểm này. Nhưng cũng có những ý
kiến khác nhau nảy sinh. Các đại biểu của các bang nhỏ, như New Jersey chẳng
hạn, đã phản đối những điều thay đổi có thể sẽ làm giảm ảnh hưởng của họ trong
chính phủ trung ương nếu dựa theo quy mô dân số chứ không dựa vào vị thế bình
đẳng của tiểu bang như đã được quy định trong các điều khoản của Liên bang.

Mặt khác, đại diện của những bang lớn như Virginia lại lập luận ủng hộ cho quyền
đại diện theo tỷ lệ. Các cuộc tranh cãi này có nguy cơ kéo dài bất tận cho đến khi
Roger Sherman đưa ra các luận cứ ủng hộ quyền đại diện theo tỷ lệ dân số của các
bang trong một viện của Quốc hội - Hạ viện - và quyền đại diện bằng nhau ở viện
kia - Thượng viện.


Việc tập hợp những bang lớn áp đảo bang nhỏ sau đó đã tan rã. Nhưng hầu như
bất kỳ vấn đề kế tiếp nào cũng đều làm nảy sinh những chia rẽ mới, chỉ có thể
được giải quyết thông qua thỏa hiệp. Đại diện miền Bắc muốn số nô lệ được thống
kê để tính mức thuế đóng góp của mỗi bang, nhưng con số này không quyết định
số ghế một tiểu bang sẽ có trong Hạ viện. Theo một thỏa hiệp đạt được mà hầu
như không có bất đồng quan điểm thì số thành viên trong Hạ nghị viện sẽ được
phân chia theo số dân tự do cộng với ba phần năm số nô lệ.

Một số thành viên như Sherman và Elbridge Gerry vẫn còn khốn khổ vì cuộc nổi
loạn của Shays. Họ lo sợ quảng đại quần chúng thiếu sự khôn ngoan cần thiết để
tự trị, vì vậy họ không muốn bất cứ nhánh nào trong chính quyền liên bang được
nhân dân bầu trực tiếp. Những người khác lại cho rằng chính quyền liên bang cần
phải dựa vào quần chúng càng rộng rãi càng tốt. Một số đại biểu mong muốn loại
trừ vùng miền Tây đang ngày càng lớn mạnh không được trở thành tiểu bang;
những vị khác thì bảo vệ nguyên tắc bình đẳng được xác lập trong Sắc lệnh Tây
Bắc năm 1787.

Không có sự khác biệt nghiêm trọng về những vấn đề kinh tế quốc gia như tiền
giấy, các đạo luật liên quan tới những nghĩa vụ hợp đồng, hoặc vai trò của phụ nữ
vốn bị loại trừ ra ngoài chính trị. Nhưng đã xuất hiện nhu cầu cân bằng những lợi
ích kinh tế của các tầng lớp; giải quyết những cuộc tranh luận về quyền hạn,
nhiệm kỳ và lựa chọn người đứng đầu cơ quan hành pháp; và giải quyết những vấn
đề liên quan tới nhiệm kỳ của thẩm phán và các loại hình tòa án cần được thành
lập.

Làm việc suốt trong mùa hè nóng bức ở Philadelphia, cuối cùng Hội nghị đã đạt
được dự thảo trình bày ngắn gọn việc tổ chức một chính phủ tinh vi nhất từ trước
tới nay - một chính phủ có quyền tuyệt đối trong phạm vi đã được xác định và hạn
chế rõ ràng. Chính phủ liên bang có toàn quyền đánh thuế, vay tiền, lập các sắc

thuế thống nhất và thuế gián thu, đúc tiền, xác định các đơn vị trọng lượng và đo
lường, cấp bằng sáng chế phát minh và chứng nhận bản quyền, thiết lập các bưu
điện và xây dựng các đường bưu điện. Chính phủ liên bang cũng có quyền tuyển
mộ và duy trì quân đội và hải quân, quản lý các công việc liên quan tới người da
đỏ, thực hiện chính sách đối ngoại và tiến hành chiến tranh. Chính phủ liên bang
sẽ thông qua các đạo luật nhập tịch cho người nước ngoài và quản lý đất công, và
cho phép các tiểu bang mới gia nhập trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối với các tiểu
bang cũ. Quyền thông qua toàn bộ đạo luật thích hợp và cần thiết để thực thi
những quyền lực đã được xác định rõ ràng được trao cho Chính phủ Liên bang để
có thể đáp ứng những nhu cầu và đòi hỏi của các thế hệ mai sau và của một chính
thể đã được mở rộng đáng kể.

Nguyên tắc tam quyền phân lập đã được thí điểm ở hầu hết hiến pháp của các tiểu
bang và đã chứng tỏ có hiệu quả. Vì lẽ đó, Hội nghị đã lập ra hệ thống chính
quyền với ba nhánh riêng biệt - lập pháp, hành pháp và tư pháp - mỗi nhánh đều
được hai nhánh còn lại kiểm soát. Chính vì vậy các dự luật của Quốc hội sẽ không
trở thành luật cho đến khi được tổng thống phê chuẩn. Tổng thống cũng phải trình
tất cả những đề cử vào vị trí quan trọng và tất cả những hiệp ước do ông ký kết để
Thượng viện thông qua. Đến lượt mình, tổng thống có thể bị buộc tội hay bãi chức
theo quyết định của Quốc hội. Cơ quan tư pháp phải xét xử tất cả mọi trường hợp
nảy sinh theo quy định của luật pháp và Hiến pháp liên bang. Trên thực tế các tòa
án được trao quyền diễn giải cả luật cơ sở và luật thành văn. Nhưng các thành viên
của cơ quan tư pháp do tổng thống đề cử và được Thượng viện công nhận cũng có
thể bị Quốc hội phế truất.

Để bảo vệ cho hiến pháp tránh bị thay đổi vội vã, điều V đã quy định những Điều
bổ sung sửa đổi Hiến pháp phải được đề nghị hoặc bởi hai phần ba ở cả hai viện
của Quốc hội, hoặc bởi hai phần ba số bang tham dự hội nghị. Các đề xuất phải
được phê chuẩn bởi một trong hai phương pháp: hoặc do các cơ quan lập pháp của
ba phần tư các bang hoặc do hội nghị ở ba phần tư các bang và Quốc hội đề nghị

cách thức được áp dụng.

Cuối cùng hội nghị đã phải đứng trước một vấn đề quan trọng nhất: các quyền lực
được trao cho chính phủ mới phải được thi hành như thế nào? Theo các điều
khoản liên bang trước đây, trên lý thuyết, chính quyền liên bang đã nắm những
quyền lực quan trọng, song trên thực tế những quyền lực này đã vô giá trị vì các
bang không hề quan tâm đến những quyền lực ấy. Vậy phải làm gì để cứu vãn
chính phủ mới tránh khỏi số phận như thế?

Ngay từ lúc đầu, hầu hết các đại biểu đã nhất trí với câu trả lời duy nhất - sử dụng
vũ lực. Nhưng họ đã mau chóng nhận thấy rằng việc sử dụng vũ lực đối với các
bang sẽ phá hoại liên minh. Người ta đã quyết định chính phủ không chỉ đạo các
bang mà chỉ định hướng cho dân chúng ở các bang, và nên ban hành luật để quản
lý toàn bộ các công dân của đất nước. Hội nghị đã thông qua hai lời tuyên bố ngắn
gọn nhưng rất quan trọng và là vấn đề chủ đạo của Hiến pháp:

Quốc hội có quyền ban hành tất cả các đạo luật cần thiết và thích hợp để thực
thi Quyền lực quy định trong Hiến pháp này được trao cho Chính phủ của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ (Điều I, Khoản 7).

Hiến pháp này, các đạo luật của Hoa Kỳ được ban hành theo Hiến pháp này, mọi
Điều ước đã hoặc sẽ được ký kết dưới thẩm quyền của Hoa Kỳ sẽ là luật tối cao
của quốc gia. Quan tòa ở các bang đều phải tuân theo những luật này; bất cứ một
điều gì trong Hiến pháp hoặc luật của các bang mà trái ngược với Hiến pháp Liên
bang đều không có giá trị. (Điều VI)

Do đó các bộ luật của Hợp chủng quốc có khả năng thực thi tại các tòa án quốc gia
thông qua các thẩm phán và cảnh sát trưởng, cũng như trong các tòa án bang thông
qua các thẩm phán bang và các quan chức thực thi luật pháp bang.


Cuộc tranh luận còn tiếp tục cho tới tận ngày nay về những động cơ thôi thúc
những người viết Hiến pháp. Năm 1913, nhà sử học Charles Beard, trong cuốn
Giải thích Hiến pháp từ góc độ kinh tế, đã lập luận rằng những người cha lập quốc
đại diện cho lợi ích của tầng lớp tư bản thương mại đang ngày càng lớn mạnh và
đòi hỏi cần phải có một chính phủ trung ương hùng mạnh. Ông cho rằng rất nhiều
người trong số họ có thể đã được thôi thúc bởi họ nắm giữ quá nhiều trái phiếu đã
bị mất giá của chính phủ. Tuy nhiên, chính James Madison, người soạn thảo chính
của hiến pháp lại không có trái phiếu và chỉ là một chủ đồn điền ở bang Virginia.
Trái lại, những người phản đối Hiến pháp lại sở hữu một lượng lớn chứng khoán
và trái phiếu. Như vậy, không chỉ có lợi ích kinh tế đã ảnh hưởng đến diễn tiến của
cuộc tranh luận mà cả những lợi ích của các tiểu bang, tầng lớp dân cư và ý thức
hệ cũng đã chi phối. Nhân tố không kém phần quan trọng chính là chủ nghĩa lý
tưởng hằn sâu trong những người thảo hiến pháp. Là sản phẩm của phong trào
Khai sáng, những người cha lập quốc đã xây dựng một chính quyền mà họ tin rằng
sẽ thúc đẩy tự do cá nhân và bản tính thiện của con người. Những lý tưởng thể
hiện trong bản Hiến pháp Mỹ là một thành tố quan trọng tạo nên bản sắc dân tộc
Mỹ.

×