Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận: Tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững nền kinh tế của Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.27 KB, 27 trang )

1

Tiểu luận
Tăng trưởng kinh tế và
phát triển bền vững nền
kinh tế của Việt Nam

A.LỜI NÓI ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về
phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của
tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ trong mỗi giai
đoạn của mỗi quốc gia.
Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn
2006-2010 của Việt Nam là “đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được
bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự
phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt
đời sống vật chất văn hoá, tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp
hoá hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2010. Giữ
vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt
Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.”
Muốn Việt Nam đứng vững trên con đường phát triển thì cần phải
hiểu đúng nghĩa về tăng trưởng, phát triển kinh tế và phát triển bền vững. Vì
vậy em xin trình bày về vấn đề: “ Tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững
nền kinh tế của Việt Nam”.
2
B.NỘI DUNG
Chương I: Những lý luận về phát triển kinh tế và sự phát triển
bền vững
1. Cơ sở lý luận.


a. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một
khoảng thời gian nhất định( thường là một năm).
+)Sự gia tăng được thể hiện ở qui mô và tốc độ. Qui mô tăng trưởng
phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý
nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các
thời kì.
+) Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá
trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GNP, GNI và được tính
cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng đối
với nền kinh tế. Ngày nay, yêu cầu tăng trưởng kinh tế được gắn liền với tính
bền vững hay việc bảo đảm chất lượng tăng trưởng ngày càng cao. Theo khía
cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, có hiệu quả
của chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Hơn thế
nữa, qúa trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là
khoa học, công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp
lí.
3
Để đạt được sự tăng trưởng kinh tế tốt nhất là đề đạt được sự tăng trưởng
ở mức cao thì cần có sự phối hợp đồng bộ giữa điều hành vĩ mô và điều khiển
vi mô, kết hợp nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, vận dụng các quy
luật kinh tế và sử dụng các công cụ đòn bẩy như thuế, tiền tệ, lãi suất, việc
làm
Tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh
suy của một quốc gia. Bởi thế, chính phủ nước nào cũng ưu tiên các nguồn
lực của mình cho sự tăng trưởng kinh tế, coi đó là cái gốc, là nền tảng để giải
quyết mọi vấn đề khác. Trên cơ sở giải quyết vấn đề tảng trưởng kinh tế tạo
ra nhiều của cải mới, người ta mới có thể giải quyết hàng loạt vấn đề khác
như cân bằng ngân sách, đầu tư chiều sâu, phúc lợi xã hội, giải quyết việc

làm, chống lại các loại tội phạm, đảm bảo ngân sách cho quốc phòng an
ninh Ngược lại nếu không đạt được sự tăng trưởng kinh tế ở mức độ cần
thiết thì trong xã hội sẽ có khả năng nảy sinh hàng loạt vấn đề rất nan giải.
Bài học của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế trầm trọng (khoảng
những năm 1976 - 1986) đã cho ta thấy rõ vai trò của sự tăng trưởng kinh tế
quan trọng như thế nào.
b.Phát triển bền vững:
Khái niệm: Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các
nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu
cầu của thế hệ tương lai.
Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Môi trường
Liên Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc:
+) Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng.
+) Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người.
4
+) Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất.
+) Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được.
+) Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất.
+) Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.
+) Ðể cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình.
+) Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát
triển và bảo vệ.
+) Xây dựng một khối liên minh toàn cầu.
Phát triển bền vững đang là thách thức cho mọi quốc gia, nhất là trong
điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế.việc ựa chọn con đường, biện
pháp và thể chế, chính sách đảm bảo phát triển bền vững luôn là mối quan
tâm hàng đầu của mọi người trong bước đường phát triển.
2. Tiêu chí đánh giá
Tăng trưởng kinh tế được xem xét dưới góc độ chất lượng. Chất lượng
tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững

của nền kinh tế, thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong 1 thời gian dài;
- Phát triển có hiệu quả, thể hiện qua năng suất lao động, năng suất
tài sản cao và ổn định, hệ số, hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) phù hợp, và đóng
góp của nhân tố năng suất tổng hợp (TPF) cao;
- Nền kinh tế có tính cạnh tranh cao;
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo hài hòa đời sống xã hội;
- Tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái;
5
Chương II: Thực trạng tăng trưởng kinh tế và phát triển bền
vững nền kinh tế ở Việt Nam
I.Tình hình cụ thể
Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách
thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã
đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường
xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều
lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. Ở trong nước, thiên tai dịch bệnh
xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước cũng đã gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất
và đời sống dân cư.
Trong bối cảnh không thuận lợi đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn
chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội; Nghị
quyết 01/NQ-CP ngày 09/01/2009 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều
hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách Nhà
nước năm 2009. Ngày 6/4/2009, Bộ Chính trị đã ra Kết luận về tình hình kinh
tế-xã hội quý I/2009 và các giải pháp chủ yếu đến cuối năm 2009. Ngày
19/6/2009, kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khoá XII đã ra Nghị quyết số
32/2009/QH12 điều chỉnh mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội năm 2009 là “Tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chặn suy giảm kinh tế,
phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ ổn định kinh

tế vĩ mô; chủ động phòng ngừa lạm phát cao trở lại, bảo đảm an sinh xã hội,
quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, trong
đó, mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế”.
6
Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành nhạy bén, kịp thời, tập trung và quyết
liệt của Đảng, Chính phủ; sự nỗ lực và chủ động khắc phục khó khăn, sự
sáng tạo của các Bộ, Ngành, địa phương, các tập đoàn kinh tế, doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất và của toàn dân nên nước ta đã ngăn chặn được suy
giảm kinh tế, càng về cuối năm càng nâng cao được tốc độ tăng trưởng.
Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản
phẩm trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp nhất
trong nhiều năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc
độ tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04%
và 6,9%. Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%,
bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.
Từ diễn biến và kết quả tăng tổng sản phẩm trong nước năm 2009 có thể đưa
ra một số nhận xét, đánh giá như sau:
- Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tuy vẫn thấp hơn tốc độ tăng
6,18% của năm 2008, nhưng đã vượt mục tiêu tăng 5% của kế hoạch. Trong
bối cảnh kinh tế thế giới suy thoái, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm mà kinh tế
nước ta đạt được tốc độ tăng trưởng dương tương đối cao như trên là một thành
công lớn.
- Hai là, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I và quý II năm 2009
thấp hơn tốc độ tăng của quý I và quý II năm 2008; nhưng quý III/2009 tăng
6,04%, cao hơn tốc độ tăng 5,98% của quý III/2008 và quý IV/2009 tăng
6,9%, cao hơn tốc độ tăng 5,89% của quý IV/2008 cho thấy nền kinh tế
nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm tốc độ tăng trưởng, chứng tỏ các chính
7

sách, giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế của Chính phủ đề ra, được triển
khai trong năm vừa qua phù hợp với tình hình thực tế, đã và đang phát huy
hiệu quả.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 6 tháng đầu năm 2009
theo giá so sánh 1994 đạt 97,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,76% so với cùng kỳ năm
trước; đến 6 tháng cuối năm đã đạt 122,8 nghìn tỷ đồng, tăng 3,16% so với 6
tháng cuối năm 2008. Do vậy, tính chung cả năm 2009 đạt 219,9 nghìn tỷ
đồng, tăng 3% so với năm 2008, bao gồm nông nghiệp đạt 160,1 nghìn tỷ
đồng, tăng 2,2%; lâm nghiệp đạt 7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,8%; thuỷ sản đạt
52,8 nghìn tỷ đồng, tăng 5,4%.
Sản xuất công nghiệp
Công nghiệp là ngành bị ảnh hưởng mạnh do thị trường xuất khẩu hàng
hoá thu hẹp; nhưng các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế có
nhiều cố gắng; Chính phủ và các cấp, các ngành đã đề ra nhiều giải pháp kịp
thời, có hiệu quả như hỗ trợ lãi suất vay vốn; mở rộng thị trường tiêu thụ trong
nước thông qua các gói kích cầu đầu tư và kích cầu tiêu dùng; vận động nhân
dân hưởng ứng chủ trương “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”
nên kết quả sản xuất, kinh doanh từng bước được khôi phục và tiếp tục tăng
trưởng.
Đầu tư phát triển
Với mục tiêu ưu tiên là ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh
xã hội, trong năm qua Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu
tư và tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án,
công trình trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy tăng
8
trưởng kinh tế. Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009 theo giá
thực tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3% so với năm 2008 và
bằng 42,8% GDP, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 245 nghìn tỷ đồng,
chiếm 34,8% tổng vốn và tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước 278 nghìn tỷ

đồng, chiếm 39,5% và tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7% và giảm 5,8%.
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2009

Nghìn tỷ
đồng
Cơ cấu
(%)
So với cùng
kỳ năm trước
(%)
TỔNG SỐ 704,2 100,0 115,3
Khu vực Nhà nước 245,0 34,8 140,5
Khu vực ngoài Nhà nước 278,0 39,5 113,9
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài 181,2 25,7 94,2
II.Thành tựu và hạn chế tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu phát triển
bền vững ở Việt Nam
1.Kết quả đạt được về tăng trưởng kinh tế nhằm hướng tới phát triển bền
vững:
1.1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương
đối ổn định
9
Cần khẳng định rằng dưới tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, quá trình suy giảm kinh tế của Việt Nam đã không kéo dài và sự phục
hồi tốc độ tăng trưởng đến nhanh. Hình 1 cho thấy nền kinh tế chạm đáy suy
giảm tăng trưởng trong quý I/2009 sau đó liên tục cải thiên tốc độ ở các quý
sau. Tốc độ tăng GDP quý II đạt 4,5%, quý III đạt 5,8% và dự đoán quý IV sẽ
đạt 6,8%.
Hình 1: Tăng trưởng GDP theo quý

Các chỉ số tăng trưởng cho các ngành cũng thể hiện một xu hướng
phục hồi rõ rệt. Giá trị sản xuất công nghiệp quý I đạt 3,2%, quý II tăng lên
7,6% và quý III là 8,5%. So với khu vực công nghiệp, thì khu vực dịch vụ
chịu tác động ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới ở mức độ thấp hơn.
Nhìn chung, khu vực dịch vụ vẫn duy trì tăng trưởng khá cao, tốc độ tăng
trưởng trong quý I là 5,1%, trong quý II, 5,7% và 6,8% trong quý III. Căn cứ
kết quả thực hiện 9 tháng đầu năm và triển vọng các tháng tiếp theo, tốc độ
10
tăng trưởng giá trị khu vực dịch vụ ước thực hiện cả năm 2009 có thể đạt
6,5%. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, do sản lượng lương thực năm 2008 đã
đạt mức kỷ lục so với trước, nên ngành nông nghiệp tăng không nhiều trong
năm 2009. Uớc thực hiện giá trị tăng thêm ngành nông, lâm, thủy sản tăng
khoảng1,9%
Tổng sản phẩm trong nước năm 2009
theo giá so sánh 1994
%
2008 2009
Tổng số 6,18 5,32
A. Phân theo khu vực kinh tế
Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản 4,07 1,83
Công nghiệp và xây dựng 6,11 5,52
Dịch vụ 7,18 6,63
B. Phân theo quý trong năm
Qúy I 7,49 3,14
Qúy II 5,72 4,46
Qúy III 5,98 6,04
Qúy IV 5,89 6,90
Nguồn:Tổng cục thống kê
Như vậy xu hướng phục hồi tăng trưởng là khá vững chắc và đạt được
ngay từ trước khi các gói kích cầu được triển khai trên thực tế. Với mức tăng

trưởng như vậy dự báo GDP cả năm 2009 sẽ đạt 5,2%, cao hơn so với mức
tăng trưởng đáy trong 20 năm qua ở mức 4,77% của năm 1999. Đây là một
11
thành tựu kinh tế nổi bật trong năm 2009 nếu đặt trong bối cảnh Việt Nam là
một trong số ít nền kinh tế trong khu vực và thế giới vẫn đạt mức tăng trưởng
dương.
1.2. Tăng trưởng kinh tế đã dựa trên sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội
theo hướng CNH, HĐH, từng bước hội nhập vào sự phân công của nền kinh
tế khu vực và thế giới .
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, đó là tỷ
trọng trong GDP của ngành nông – lâm - thuỷ sản đã giảm nhanh từ 38,1%
năm 1990 xuống 27,2% năm 1995, 24,5% năm 2000, năm 2005 xuống
20,9%, và đến năm 2006 còn 20,4%; Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong
GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%, năm 1995 đã tăng lên 28,8%, năm
2000 là 36,7%, năm 2005 là 41% và đến năm 2006 đã tăng đến 41,6%; Tỷ
trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%, năm
1995 là 44,0%, năm 2000 là 38,8% năm 2005 là 38,07% và đến năm 2006 là
38,08%
Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội
nhập vào kinh tế toàn cầu, thể hiện ở tỷ lệ XK/GDP ngày càng tăng, từ 34,7%
năm 1992 lên 47% năm 2001 và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng KNXK 5
năm 2001-2005 đã đạt 111 tỷ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch
16%/năm), khiến cho năm 2005 bình quân KNXK/người đã đạt 390
USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, KNXK tiếp tục đạt mức cao 40 tỷ
USD, tăng 24% so với năm 2005. Năm 2007, KNXK 9 tháng đầu năm đã đạt
khoảng 35,2 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2006. Dự báo tổng
KNXK năm 2007 có thể đạt tới 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với cùng kỳ năm
2006, đưa tỷ lệ XK/GDP lên đến 67,4%. Nhiều sản phẩm của Việt Nam như
gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản đã có sức cạnh tranh cao trên thị
12

trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ
nước ngoài (FDI), và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng
trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng
mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2001: vốn FDI vào Việt Nam là 3,2 tỷ
USD; tiếp theo, năm 2002: 3,0 tỷ USD; 2003: 3,2 tỷ USD; 2004: 4,5 tỷ USD;
2005: 6,8 tỷ USD; 2006: 10,2 tỷ USD; và 9 tháng đầu năm 2007 đã đạt 9,6 tỷ
USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2006. Theo dự báo của Cục Đầu tư nước
ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam), kết thúc năm 2007 này nếu các thủ
tục hành chính cấp phép triển khai thuận lợi, nhanh chóng, kịp với nhu cầu
các nhà đầu tư thì có thể vốn FDI vào Việt Nam sẽ đạt tới con số kỷ lục là 13
tỷ USD).
Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực. Nếu như năm
1990, lực lượng lao động trong ngành nông-lâm-thuỷ sản còn chiếm đa số lực
lượng lao động xã hội (73%) thì đến năm 2000 giảm xuống còn 68,2% và đến
năm 2005 còn khoảng 56,8%; Tỷ lệ lao động công nghiệp năm 1990 là
11,2%, năm 2000 là 12,1%, năm 2005 khoảng 17,9%; Tỷ lệ lao động trong
các ngành dịch vụ năm 1990: 15,6%, năm 2000: 19,7, năm 2005: 25,3%.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy
tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới, chiếm 38,4% GDP vào năm
2005 và đang chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt. Kinh tế dân doanh phát
triển khá nhanh, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh
tế - xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; trong
đó kinh tế hợp tác và HTX phát triển khá đa dạng, chiếm 6,8% GDP. Kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng khá cao, đóng góp 15,9 %
GDP của cả nước năm 2005.
13
1.3 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa đến nâng cao trình độ và chất
lượng sống của các tầng lớp dân cư.
Việc đánh giá trình độ và chất lượng dân sinh của các quốc gia, lãnh thổ

có thể được căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, song thông thường có tính
phổ biến ngày nay người ta vẫn dùng tiêu chí chỉ số phát triển con người
(HDI) là một thước đo tổng hợp về nhiều khía cạnh trình độ và chất lượng
dân sinh. Theo Báo cáo hàng năm của Liên hiệp quốc, chỉ số HDI của Việt
Nam đã liên tục tăng trong những năm gần đây, từ 0,671 điểm (năm 2000) đã
tăng lên 0,688 điểm (2003), tăng lên 0,704 điểm (2005) và có khả năng đạt
tới 0,750 điểm vào năm 2010 như mục tiêu Chiến lược Dân số đã đề ra. Đáng
lưu ý là, từ năm 1995 đến nay, xếp hạng HDI của Việt Nam trong khu vực đã
được nâng lên từ thứ bậc 7 lên thứ bậc 6; ở Châu Á từ thứ bậc 32 lên thứ bậc
28 và trên thế giới từ thứ bậc 122 lên thứ bậc 108 so vớí 177 nước trên thế
giới.
Để thấy rõ một cách chi tiết về trình độ và chất lượng sống của các tầng
lớp dân cư Việt Nam đã ngày càng nâng cao hơn, nên xem xét tổng thể các
tiêu chí cơ bản sau đây:
+) Đời sống các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập
GDP bình quân/người của cả nước đã tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên
trên 10 triệu đồng năm 2005, tương đương 640 USD (tăng 12,1%/năm và
1,75 lần sau 5 năm). Năm 2007, ước tính có thể đạt 835 USD.
+)Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam tăng từ 65,2 tuổi năm 1995
lên 70 tuổi năm 2003 và lên 71,5 tuổi năm 2005.
14
+) Xếp hàng chỉ số giới của Việt Nam cao hơn xếp hạng về HDI và GDP
bình quân đầu người, đứng thứ 89 trên 144 nước năm 2005
+)Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ, cụ thể là:
•Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng đã liên tục giảm nhanh từ
33,4% năm 2000, giảm xuống còn 31,9% năm 2001, 30,1% năm 2002, 28,4%
năm 2003, 26,6% năm 2004 và 25,5% năm 2005.
•Tỷ lệ trẻ mới sinh nặng dưới 2.500gam ở mức thấp, gần 8%. .
•Tỷ lệ trẻ em bị tử vong dưới 1 tuổi năm 2005 giảm còn 18/1.000 trẻ đẻ
sống. Tỷ suất tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản giảm xuống còn

80/100.000 trẻ đẻ sinh sống.
•Tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch đạt 62% năm 2005,
vượt mục tiêu đề ra.
•+ Hầu hết các xã phường trong cả nước đều đã có trạm y tế, trong đó
có trên 65% số trạm có bác sĩ. Chế độ khám, chữa bệnh cho người nghèo, bảo
hiểm y tế có bước phát triển. Đã triển khai khám, chữa bệnh miễn phí cho trẻ
em dưới 6 tuổi.
•+ Đã ngăn chặn có hiệu quả và khắc phục nhanh một số bệnh dịch mới
như SARS, cúm gia cầm, được thế giới đánh giá cao; đẩy mạnh phòng chống
HIV/AIDS.
• Sản xuất thuốc chữa bệnh chiếm 45% thị phần thuốc chữa bệnh
+) Sự nghiệp phát triển giáo dục - tạo có bước phát triển mạnh. Năm
2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa nạn mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học, đến năm 2005, có 31/64 tỉnh, thành phố đạt chuẩn quốc gia về phổ
cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn biết chữ đạt 94%, trong khi đó
15
trung bình của thế giới là 79%, các nước thu nhập thấp là 61%, các nước thu
nhập trung bình là 90%, các nước châu Á – Thái Bình Dương là 90%. Đến
hết năm 2005, số học sinh đi học bậc tiểu học đạt 97,5%, số học sinh trung
học chuyên nghiệp tăng 15,1%/năm, dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh
viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm. Cơ sở vật chất các cơ sở giáo dục
và đào tạo ở các cấp được tăng cường. Nhiều tỉnh đã xây dựng được trường
chuẩn quốc gia. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo tăng lên. Năm 2005, chi cho
giáo dục và đào tạo đã đạt tới 18% tổng chi ngân sách nhà nước.
+) Đời sống văn hoá không ngừng nâng cao. Tính đến năm 2005, đã có
khoảng 95% số hộ được nghe Đài tiếng nói Việt Nam, 90% số hộ được xem
truyền hình Việt Nam. Đáng lưu ý, có nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số đã được phủ sóng phát thanh, truyền hình. Đến năm
2005, đã có 650 cơ quan báo chí, vớí 713 ấn phẩm, có70 tờ báơ điện tử và
hàng trăm ngàn trang tin điện tử. Các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục,

thể thao đều tiếp tục phát triển mạnh, cơ sở vật chất được tăng cường. Nước
ta dã tổ chức hành công Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 22 và Đại hội
thể thao của người khuyết tật Đông Nam Á lần thứ 2, gây ấn tượng tốt trong
khu vực và quốc tế.
1.4 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết việc làm, gắn liền
với tiến bộ và công bằng xã hội.
Đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt, thể hiện ở thu nhập GDP
bình quân đầu người nước ta đã không ngừng tăng lên, từ 220 USD những
năm đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, đã tăng lên 400 USD năm 2000, tăng
1,8 lần, 483 USD năm 2003, đến năm 2005 đã là 640 USD, và đến năm nay
2007 có thể đạt tới 835 USD. Đáng lưu ý là công tác xoá đói giảm nghèo đã
16
đạt kết quả rất khả quan, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Là một trong
những quốc gia có kết quả giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. đến cuối năm 2005,
tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn cũ còn 7% (kế hoạch là 10%; năm 2001 là 17,5%).
Theo Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại
kỳ họp thứ 12, Quốc hội khoá XII (Nhân dân, 23/10/2007), đến nay đã có gần
4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người có hoàn có hoàn cảnh khó khăn được tiếp
cận với nguồn vốn thuộc 10 chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước, góp
phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 18% năm 2006 xuống còn 14,7% (theo chuẩn
mới) năm 2007. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã hoàn thành
Mục tiêu Thiên niên kỷ xoá đói nghèo đến năm 2015 trước 10 năm
2. Hạn chế:
2.1 Tăng trưởng kinh tế vẫn chưa vững chắc:
Tăng trưởng kinh tế đạt bình quân 7,5%/năm trong 5 năm 2001-2005 là
một thành tựu lớn, nhưng tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào các yếu tố về vốn,
lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên Bên cạnh đó, công nghiệp chế
biến nông sản và chế tạo tư liệu sản xuất còn kém, chủ yếu vẫn là lắp ráp, gia
công. Các yếu tố đem lại giá trị gia tăng cao như khoa học, công nghệ chưa
được khai thác và phát huy.

Quy mô đầu tư ngày càng tăng, thể hiện ở tỷ lệ đầu tư trên GDP ngày
càng cao, nhưng hiệu quả đầu tư, trình độ của nền kinh tế và chất lượng tăng
trưởng kinh tế vẫn còn ở mức thấp, chưa tương xứng với đầu tư. Khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp, của nền kinh tế còn thấp, lao động có tay nghề
cao vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong lực lượng lao động.
17
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế còn dưới mức khả năng phát triển của đất
nước,chất lượng phát triển còn thấp, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn
yếu . Tăng trưởng kinh tế những năm qua chưa phát huy được hết các nhân tố
theo chiều sâu. Năng lực cạnh tranh, năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền
kinh tế còn thấp. Chưa kết hợp thật tốt giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ và chăm lo đúng mức cho sự phát triển của con
người, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động, yếu tố
về tiến bộ khoa hoc và công nghệ tuy có tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng
nhỏ.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Một số công
trình xây dựng lớn, quan trọng quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch.
Năng lực sản xuất một số ngành, sản phẩm quan trọng, thiết yếu tăng chậm.
Môi trường còn ô nhiễm nặng và bị tàn phá nghiêm trọng, chưa có các
giải pháp hữu hiệu trong giải quyết vấn đề môi trường.
2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng đều và chưa phát huy thế mạnh
trong từng ngành, từng vùng, từng sản phẩm. Cơ cấu dịch vụ chưa có sự
chuyển dịch đáng kể, dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn triển khai
còn chậm và thiếu tính bền vững. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP còn thấp và
chưa có chuyển biến rõ rệt. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng, chưa phát huy được vai trò đầu kéo kinh tế vùng;
chính sách đầu tư và hỗ trợ các vùng kém phát triển chưa đáp ứng được yêu

18
cầu. Sự phát triển của các thành phần kinh tế chưa đồng đều. Tỷ lệ lao động
qua đào tạo còn thấp so với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển
dịch cơ cấu kinh tê.
2.3. Tăng trưởng kinh tế nhanh làm ô nhiễm môi trường
So với các nước trong khu vực sản xuất công nghiệp của nước ta có quy
mô còn rất nhỏ bé nên sự tác động gây ô nhiễm môi trường phần lớn đang ở
phạm vi hạn chế gây suy thoái cục bộ trong ranh giới của vùng hẹp. Tuy vậy,
với tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm của chúng ta hiện nay, để bảo
đảm phát triển bền vững chúng ta đang đứng ở thời điểm không thể trì hoãn,
bắt buộc phải xác lập các bước đi thích hợp, thực hiện các biện pháp giải
quyết và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường.
3.Giải pháp để phát triển bền vững nền kinh tế ở Việt Nam.
3.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa nhằm đáp ứng sự nghiệp đổi mới của Đảng và thực hiện các mục
tiêu kinh tế – xã hội.
Điều cần chú ý là đổi mới hoạt động ngân hàng – tài chính là khâu
đột phá trong suốt tiến trình đổi mới nền kinh tế. Cơ chế quản lý, giám sát
hoạt động ngân hàng – tài chính được đổi mới theo hướng thông thoáng hơn,
phù hợp với tự do hóa tài chính nhằm tạo môi trường thuận lợi, cho các tổ
chức tín dụng hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Tập trung hoàn thiện hệ
thống pháp luật về kinh tế thị trường. Tạo lập đồng bộ và vận hành thông
suốt các loại thị trường, nhất là thị trường tài chính. Chú trọng liên kết giữa
thị trường tiền tệ với thị trường vốn. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với
19
chính sách tài khóa để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến
khích thực hành tiết kiệm trong tiêu dùng, tập trung vốn cho đầu tư phát
triển. Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ được chuyển từ cơ chế kế hoạch
hóa sang cơ chế điều hành dựa vào thị trường với việc từng bước loại bỏ các
biện pháp kiểm soát tiền tệ trực tiếp như các kế hoạch tiền mặt, kế hoạch tín

dụng, trần tín dụng ấn định lãi suất và đưa vào áp dụng các công cụ chính
sách tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, chiết khấu, dự trữ bắt
buộc được vận hành linh hoạt và phù hợp với thông lệ quốc tế. Xây dựng hệ
thống ngân hàng đáp ứng với cơ chế thị trường cùng với các loại hình dịch
vụ tiện ích nhằm phục vụ cho hội nhập kinh tế quốc tế. Sớm cổ phần hóa các
ngân hàng thương mại theo sự chỉ đạo của Chính phủ. Đương nhiên, để cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nước cần có lộ trình và có giải pháp mạnh để
đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa. Ngân hàng Nhà nước không phát hành tiền
cho chi tiêu ngân sách. Các khoản tín dụng của Ngân hàng Nhà nước dành
cho ngân sách nhà nước và các ngân hàng thương mại là các khoản tín dụng
ngắn hạn, có bảo đảm. Lãi suất được chuyển từ cơ chế lãi suất cố định được
kiểm soát bằng các mệnh lệnh hành chính sang cơ chế lãi suất thị trường.
Nhờ vậy, lãi suất và tỷ giá trở thành thước đo giá trị và đòn bẩy kinh tế quan
trọng thúc đẩy tiết kiệm, đầu tư, kiểm soát lạm phát, ổn định hệ thống tài
chính, góp phần khuyến khích xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
3.2. Xây dựng môi trường kinh doanh thông thoáng tạo điều kiện để các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh phát huy trong cơ chế thị
trường.
Đương nhiên để thực hiện được nội dung này cần có luật pháp đồng
bộ. Lâu nay, chúng ta chuyển sang cơ chế mới song luật pháp lại thiếu đồng
bộ nên việc thực hiện còn nhiều vướng mắc. Có nhiều văn bản dưới luật và
20
kể cả các luật còn mâu thuẫn, “chồng chéo” đã làm cho các doanh nghiệp
khó vận dụng, thậm chí luồn lách luật. Tình trạng trốn thuế, chây ỳ thuế ở
các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp tư nhân là khá phổ biến đã gây
thất thoát lớn cho nguồn thu của Nhà nước. Việc thỏa thuận thuế giữa cơ sở
và cơ quan thuế tồn tại một quá trình dài khiến cho công tác hành thu chưa
đáp ứng được tính công bằng, khách quan. Không ít trường hợp cùng trên
địa bàn, cùng sản xuất, kinh doanh mặt hàng song nộp thuế lại khác nhau do
“cơ chế thỏa thuận thuế”, khiến cho các cơ sở, doanh nghiệp chưa phấn khởi

nộp thuế đúng với trách nhiệm và nghĩa vụ. Đối với doanh nghiệp liên
doanh cùng ở chân hàng rào khu công nghiệp, việc áp thuế với mỗi đơn vị
có số thu chênh lệch nhau gây bức xúc cho các doanh nghiệp. Điều này được
các ý kiến phát biểu ở “Cuộc đối thoại giữa các doanh nghiệp với lãnh đạo
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính.”
Đáng lưu ý là có một thực trạng là thủ tục hành chính ở Việt Nam là
quá rườm rà, phức tạp, qua nhiều khâu, chi phí tốn kém. Không ít các nhà
đầu tư ngại việc làm thủ tục do chậm trễ, thủ tục hành chính qua nhiều cửa
mà chủ yếu “hành là chính”. Nếu có “lót tay” thì thông đồng bén giọt, nếu
không còn chờ đợi. Mặt khác, ngay việc thực hiện các ưu tiên cho các doanh
nghiệp sử dụng nguyên liệu trong nước làm hàng xuất khẩu còn bị thu thuế
như doanh nghiệp mua nguyên liệu từ bên ngoài; thậm chí nếu tính đầy đủ
còn bị thuế cao hơn. Tất cả các tồn tại trên đều là do việc các văn bản, luật
pháp còn chưa đồng bộ khiến cho quá trình thực hiện gặp khó khăn. Đương
nhiên cũng không loại trừ nhiều bộ phận như hải quan ở nhiều địa phương
còn tự đặt ra quy chế riêng để thực hiện công tác hành thu, nhằm tạo nguồn
thu bất chính để mưu cầu lợi ích riêng. Thực tế cho thấy, ở nhiều cửa khẩu
hàng xuất đi nước ngoài vẫn còn nhiều tiêu cực mà chưa được ngăn chặn,
21
như áp thuế không đúng với số lượng, chủng loại hàng hóa. Các mặt hàng
“nhạy cảm” vẫn chưa được kiểm soát triệt để bảo đảm nghiêm minh đúng
luật pháp.
3.3. Tiếp tục phát triển các thành phần kinh tế để đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo.
Qua hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những
thành tựu đáng phấn khởi, được bạn bè thế giới đánh giá cao. Những thành
tựu đó là nhờ sự lãnh đạo của Đảng trong đổi mới tư duy kinh tế, đưa nền
kinh tế nhiều thành phần thay cho việc chỉ chú trọng kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể. Sự nhận thức rõ về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
đã tạo điều kiện cho đất nước khởi sắc. Thực tiễn cho thấy phát triển kinh tế

hàng hóa là giai đoạn thấp của kinh tế thị trường, cho nên đẩy mạnh sản xuất
hàng hóa trong điều kiện đất nước còn nghèo thì phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần là đúng hướng. Những kỳ thị về kinh tế tư nhân đã dần dần
không còn mặc cảm. Chính nhờ phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế trang trại
đã giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho dân cư,
góp phần xóa đói giảm nghèo. Trong thực tiễn đã xuất hiện nhiều mô hình
kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, trở thành triệu phú. Đến
Đại hội Đảng X, cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân là một bước nhận
thức mới trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu là đưa Việt Nam
trở thành một nước công nghiệp, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu này, kinh tế nhà nước phải là đầu
tàu để cùng các thành phần kinh tế khác phát triển. Kinh tế nhà nước sẽ có
mặt ở những nơi khó khăn, xung yếu, làm những việc mà kinh tế tư nhân và
các thành phần kinh tế khác không thể làm được, hoặc làm không hiệu quả.
Điều quan trọng là bất cứ một đảng cầm quyền nào thì việc điều hành nền
22
kinh tế – xã hội đều phải xây dựng một nền kinh tế mạnh. Sức mạnh của nền
kinh tế là phải điều phối được nhịp độ tăng trưởng kinh tế, kiềm chế được
tốc độ tăng lạm phát, tự chủ được tài chính quốc gia không phụ thuộc vào
kinh tế bên ngoài. Sự độc lập trong tiến trình điều hành đất nước đi theo mục
tiêu và định hướng đã chọn là thể hiện thế mạnh của một quốc gia. Cho nên
để làm được điều đó, kinh tế nhà nước cần được nắm giữ và coi trọng phát
triển.
2.4. Phát triển các loại hình dịch vụ trong nền kinh tế thị trường sẽ tạo
nguồn thu lớn thúc đẩy nền kinh tế phát triển, theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Ở các nước phát triển, các loại hình dịch vụ phát triển chiếm tỷ trọng
cao (Mỹ chiếm 70%, Anh, Pháp, Đức là 60%, Nhật Bản là 50%, Hàn Quốc
50%…) trong nền kinh tế. Sở dĩ ở các nước công nghiệp có các loại hình
dịch vụ phát triển vì: 1- Do yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường

đòi hỏi phải có các dịch vụ mới thúc đẩy được sản xuất kinh doanh phát
triển. 2- Đây là nguồn thu nhập rất lớn cho ngân sách, dễ thu hồi vốn, lãi cao
thậm chí còn hơn cả sản xuất. 3- Nó phát triển theo xu hướng là xã hội hóa
và quốc tế hóa nhất là các ngành tài chính, ngân hàng, giao thông, thương
mại – du lịch, xây dựng… Chẳng hạn thẻ rút tiền tự động ATM gửi một nơi
mà rút ra ở nhiều nơi, thậm chí ở cả nước ngoài. Dịch vụ của các công ty lớn
xuyên quốc gia như Hon Đa (Nhật Bản), Sam Sung (Hàn Quốc), Si-ê-men
(Đức), Cô ca – Cô la (Mỹ), Đun Hin (Anh)… mang tính toàn cầu. Sự tiện
ích của các dịch vụ đã làm cho con người thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống,
nó thúc đẩy cho sản xuất kinh doanh phát triển. Thước đo của các loại hình
dịch vụ có chất lượng cao được bạn hàng lựa chọn. Điện thoại di động, máy
ảnh kỹ thuật số, internet… là dịch vụ tiện ích mà đến nay những người khó
23
tính nhất cũng phải thừa nhận đó là nhanh và tiện lợi, là văn minh nhân loại
của thế kỷ XXI này.
Điều đáng chú ý là các loại hình dịch vụ ở mỗi ngành lại có tính đặc
thù riêng đòi hỏi phải có chuyên môn phù hợp. Nhưng điều cần nhận thức
rằng dù dịch vụ ở lĩnh vực nào thì cái chung của dịch vụ là phục vụ cho sản
xuất kinh doanh của nền kinh tế. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
các loại hình dịch vụ phải vươn lên phục vụ cho các nước. Vấn đề đặt ra là
các loại hình dịch vụ phải chuyên sâu, có nghiệp vụ vững mới đáp ứng được
khách hàng trong nước và nước ngoài mến mộ. Sẽ là mất cơ hội, nếu tàu
nước ngoài đến cập cảng lại từ bỏ không cần dịch vụ của ta mà lại đến cảng
nước khác, dẫu rằng họ rất cần sửa chữa và các dịch vụ khác. Sự phát triển
kinh tế – xã hội của mỗi giai đoạn đòi hỏi các loại hình dịch vụ phải vươn
lên thích ứng nắm bắt để phục vụ có hiệu quả. Mô hình Xin-ga-po – một
quốc gia có diện tích và dân số khiêm tốn nhưng lại có các loại hình dịch vụ
cao, hoạt động có hiệu quả mà chúng ta cần học tập và suy ngẫm.
C.KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên ta thấy được mối quan hệ giữa tăng

trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần
đối với phát triển kinh tế, song nó không phải là điều kiện đủ cho việc phát
triển kinh tế. Nếu một đất nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế quá nhanh sẽ
24
làm cho nền kinh tế phát triển không bền vững . Vì thế, để có được một
nền kinh tế phát triển bền vững phải kết hợp nhiều yếu tố như môi trường,
có cơ cấu kinh tế một cách hợp lí,và đặc biệt là phải quan tâm đến việc cải
thiện đời sống cho người dân.
MỤC LỤC
A.LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………………….1
B.NỘI DUNG…………………………………………… …………………… 2
Chương I: Những lý luận về phát triển kinh tế và sự phát triển bền
vững…………………………………………………………………………2
I. Cơ sở lý luận……………………………………………………………….2
a. Tăng trưởng kinh tế……………………………………………………….2
b.Phát triển bền vững………………………………………………………….3
25

×