Chiến Dịch Lịch Sử Hồ Chí Minh
Chiến Dịch Lịch Sử Hồ Chí Minh
Sau khi hiệp định Paris được ký kết, tình hình ở miền Nam vẫn rất phức tạp. Chính
quyền Ngụy ở Sài Gòn thực hiện kế hoạch Lý Thường Kiệt tung quân đi thực hiện
kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ" trên toàn miền Nam lấn chiếm, cắm cờ giành đất hết
sức quyết liệt.
Trước tình hình ấy, Trung ương triệu tập đoàn cán bộ B2 ra miền Bắc họp. Đoàn
gồm Nguyễn Văn Linh, phó bí thư Trung ương cục, phụ trách khu vực Sài Gòn -
Gia Định, Võ Văn Kiệt bí thư Khu ủy khu 9, Trần Nam Trung phụ trách các tỉnh
miền Đông Nam Bộ, Nguyễn Minh Dường, bí thư Khu ủy khu 8 và Đại tướng
Hoàng Văn Thái phó bí thư Trung ương cục, tư lệnh B2.
Muốn ra Bắc toàn cán bộ B2 phải đi vòng qua hướng Campuchia qua con đường
huyết mạch vận chuyển vũ khí lương thực và quân đội từ miền Bắc vào miền Nam,
sang Lào và sang Campuchia. Hai ngày sau đoàn đã ra tới Hà Nội, gặp mặt tổng
Bí thư Lê Duẩn và bước đầu trao đổi một số vấn đề về tình hình miền Nam:
Mỹ đã rút quân song vẫn còn can thiệp vào miền Nam nhưng sự can thiệp này chỉ
có mức độ tức là tiếp tục viện trợ để, chức quyền Thiệu tự lực và đứng vững được.
Hiệp định Paris đề cập đến vấn đề hòa bình, hòa hợp dân tộc và điều này đi ngược
với ý muốn của Thiệu.
Ta muốn tạo thế tiến công địch phải giành được dân - đó không chỉ là một vấn đề
khoa học mà còn là một nghệ thuật: ở nông thôn phải giành lại ấp xã, giành lại dân.
Ơở thành thị phải giành được tầng lớp lao động và tầng lớp trung gian.
Cách mạng miền Nam đang ở bước chuyển giai đoạn.
Đó là một bước thử thách lớn giữa ta và Mỹ Ngụy về chiến lược là bước quá độ
diễn ra trong bối cảnh miền Nam có hai chính quyền hai quân đội. Như vậy sẽ có
hai khả năng:
Chiến tranh có thể tiếp tục trong mấy năm nữa.
Chiến tranh có thể kết thúc sớm. Chiến tranh ở miền Nam không diễn ra như trước,
nhưng chưa phải đã có hòa bình.
Bởi vậy, chủ trương của ta là giữ vững và củng cố vùng giải phóng tránh bị địch
lấn chiếm trong các vùng tranh chấp, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang trong
vùng địch kiểm soát.
Sau nghị quyết Trung ương lần thứ 21, tổ trung tâm của cục tác chiến đã chuẩn bị
bản kế hoạch chiến lược: phương hướng tác chiến năm 1973 - 1975 và bản dự thảo
đề cương nghiên cứu kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam, trong đó có mấy vấn
đề chính:
Nắm vững toàn bộ tình hình phát triển của cục diện chiến trường từ cuối năm đến
nay, thế và lực mới của ta đã hình thành và ngày càng rõ nét.
Dựa trên thay đổi về so sánh lực lượng và cục diện chiến trường, chuẩn bị theo hai
bước.
Giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định, tạo khả năng thành lập chính phủ liên hợp.
Phát triển tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn.
Hai hướng chiến lược quan trọng là Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Hướng
chủ yếu và quyết định nhất là miền Đông nhưng chỉ làm khi có điều kiện dứt điểm.
Trên hai hướng chiến lược này, phải có biện pháp nghi binh, tạo yếu tố bất ngờ,
không để lộ lực lượng để địch đề phòng. Trước mắt chủ lực chỉ hoạt động ở mức
độ vừa phải.
Có kế hoạch riêng cho miền Bắc: chi viện cả người và vật chất cho miền Nam, đề
phòng chống chiến tranh phá hoại trở lại và sẵn sàng kế hoạch tác chiến trong
trường hợp địch đổ bộ vào ven biển nam khu 4.
Xây dựng lực lượng, biên chế hợp lý, động viên tuyển quân, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ.
Vừa rút kinh nghiệm vừa tổng kết để đánh phá Bình Định của giặc, nghiên cứu
kinh nghiệm tác chiến của các đơn vị chủ lực đánh tiêu diệt chi khu, quận l? thị xã
và chiến đoàn địch, xây dựng đơn vị lớn tác chiến hiệp đồng binh chủ quy mô lớn.
Tổ chức quân đội tham gia xây dựng kinh tế, chuẩn bị phục hồi đường sắt từ nam
khu 4 trở vào.
Vào hạ tuần tháng 9, Bộ tổng tham mưu thu được bản tường trình của Bộ tổng
tham mưu ngụy gửi cho Thiệu về dự kiến năm 1975.
Theo tài liệu đó, ngụy cho rằng nếu Mỹ viện trợ 1,4 tỷ đôla, chúng sẽ kiểm soát
được toàn miền Nam, 1,1 tỷ đô la sẽ mất một nửa quân khu 1 về phía Bắc, nếu chỉ
900 triệu đô la sẽ mất quân khu 1 và vài tỉnh quân khu 2, còn 750 triệu đô la sẽ
mất quân khu 1 và quân khu 2, nếu chỉ còn 600 triệu đô la thì chỉ kiểm soát một
nửa quân khu 3 từ Biên Hòa tới quân khu 4.
Do những khó khăn về binh lực, bộ tổng tham mưu ngụy dự tính rút 25 - 30% số
đồn bốt cô lập, tiếp tế khó khăn và không có khả năng đứng vững nếu bị ta tiến
công.
Về chính trị, Mỹ trù tính cùng một số nước lớn triệu tập cuộc họp với các nước
liên quan để tìm giải pháp chính trị đối với miền Nam, đưa lực lượng thứ ba do
Mỹ sắp xếp ra sân khấu chính trị Sài Gòn.
Dựa trên tình hình ấy, Bộ tổng tham mưu của ta dự kiến năm 1975 có thể xuất
hiện cao trào hoặc sẽ có một bước phát triển mới trong năm 1976, trước khi Mỹ
bầu tổng thống. Có thể, đòn quyết định năm 1976 khiến địch phải chấp nhận chính
phủ ba thành phần, cũng không loại trừ ta sẽ giành thắng lợi quyết định vào năm
1977.
Tuy nhiên, ta vẫn còn phải tìm ra lời giải, khả năng can thiệp của Mỹ thế nào nếu
ta đánh lớn, sự phối hợp giữa quần chúng với cuộc tiến công của bộ đội chủ lực,
cơ sở vật chất và đạn pháo của ta. Ngoài ra, bản dự kiến của Bộ Tổng tham mưu
còn đưa ra ở tình huống:
Địch ngoan cố tiếp tục chiến tranh.
Địch chịu lùi một bước, chấp nhận thi hành hiệp định.
Thời cơ khởi nghĩa ở thành thị xuất hiện sớm vào năm 1976.
Sau cuộc họp của Bộ Chính trị, quyết tâm chiến lược của Bộ tổng tham mưu là:
hoàn thành giải phóng miền Nam trong hai năm 1975, 1976, không loại trừ khả
năng kéo dài sang đầu năm 1977.
Về phương hướng chiến lược của ta, trọng điểm là nam Tây Nguyên đó là hướng
chiến lược quan trọng và miền Đông Nam Bộ là hướng quyết định cuối cùng.
Sau chiến thắng Phước Long, đại tướng Văn Tiến Dũng vào Tây Nguyên để chỉ
huy trực tiếp chiến dịch.
Qua tin tức tình báo, ta được biết cuộc họp ngày 18 tháng 2 giữa Thiệu và các
tướng ngụy Sài Gòn. Chúng phán đoán ta mở cuộc tiến công xuân hè trong thời
gian sắp tới với mục tiêu giành đất giành dân, trọng điểm là quân khu 2. Thiệu còn
nhắc các tướng ngụy đề phòng ta đánh Quảng Đức, Plây Cu, Công Tum cho đó là
các mục tiêu "điểm" còn Buôn Ma Thuột nếu có bị tiến công cũng chỉ là diện.
Cho tới cuộc họp giao ban lúc 11 giờ ngày 9 tháng 3, các tướng ngụy chỉ huy ở
Tây Nguyên vẫn cho rằng quân ta đánh Quảng Đức, uy hiếp Buôn Ma Thuột chỉ
để nghi binh. Có thể vài ngày tới, ta sẽ đánh Plâycu, Công Tum. Bởi vậy chúng
tăng cường quân để đối phó ở hướng bắc Tây Nguyên. Chính vì phán đoán sai lầm,
chúng điều bớt lực lượng từ nam Tây Nguyên lên tăng viện cho Plâycu khiến
Buôn Ma Thuột càng trở nên sơ hở và cô lập.
Sau khi đánh Lập Đức, ta đánh luôn Buôn Ma Thuột. Buôn Ma Thuột được giải
phóng, ta làm chủ Đắc Lắc và tiến tới Cheo Reo. Chiến thắng Buôn Ma Thuột đã
khiến Bộ tổng tham mưu bắt đầu suy nghĩ về khả năng giành thắng lợi lớn hơn dự
kiến ban đầu.
Tình báo của ta nắm được khá sớm phản ứng của địch. Địch có ý định dựa vào các
lực lượng còn lại và các điểm phụ cận của Buôn Mê Thuột phản kích hòng chiếm
lại vùng đất đã mất. Chiến đoàn 45 cùng sở chỉ huy của sư đoàn 23 ngụy đã được
trực thăng đổ xuống Buôn Hồ trưa 11 tháng 3. Sáng 15 tháng 3, theo tin tình báo
của ta, Thiệu trực tiếp ra lệnh cho tướng Phạm Văn Phú cố giữ cho được các vị trí
xung quanh thị xã Buôn Ma Thuột để làm bàn đạp phản kích chiếm lại thị xã này
bằng liên đoàn biệt động 21, hai trung đoàn 44 và 45 thuộc sư đoàn 23, với sự yểm
trợ của đoàn 3 không quân ở sân bay Thành Sơn, liên đoàn biệt động 7 được điều
từ Sài Gòn ra thay thế sư đoàn 23 ở Plâycu.
Ngày 17, khi trên chiến trường Tây Nguyên, quân ta đã cơ bản đánh bại cuộc phản
kích của địch hòng chiếm lại Buôn Ma Thuột Bộ tổng tham mưu tổng hợp tình
hình và đưa ra hai phương án.
Phát triển vào miền Đông, sau đó xuống đồng bằng khu V.
Dùng chủ lực ở Tây Nguyên phát triển về đồng bằng khu V giải phóng Bình Định,
Phú Yên, Nha Trang sau đó mới phát triển về hướng Đông.
So sánh hai phương án trên, đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ tổng tham mưu
nhất trí đề nghị Bộ chính trị cho hành động theo phương án một và hạ quyết tâm
giải phóng miền Nam trong năm 1975 và hoàn thành giải phóng Sài Gòn trước
mùa mưa.
Với việc giải phóng Huế, Tam Kỳ và Chu Lai, tiêu diệt và làm tan rã lực lượng
chủ yếu của quân đoàn 1 ngụy, ta đã phá một phần quan trọng kế hoạch co cụm
chiến lược của địch ở ven biển miền Trung, hình thành thế bao vây uy hiếp Đà
Nẵng từ nhiều hướng. Địch buộc phải bỏ kế hoạch rút sư đoàn thủy quân lục chiến
từ Đà Nẵng đi và phải co các lực lượng còn lại về cố giữ Đà Nẵng, căn cứ cuối
cùng và quan trọng nhất của chúng ở quân khu 1, hòng kìm chân chủ lực ta ở phía
Bắc để có thời gian bố trí lại thế phòng thủ chiến lược ở phía Nam.
Đến ngày 27, tình hình Đà Nẵng trở nên sôi động. Theo lệnh của bộ tổng tham
mưu, Bộ tư lệnh quân đoàn 2 và quân khu 5 tấn công Đà Nẵng từ nhiều hướng.
Quần chúng trong thành phố dưới sự lãnh đạo của Đảng đã hỗ trợ cho các cánh
quân chủ lực tiến vào Đà Nẵng đồng bào Đà Nẵng đưa xe khách, xe đò, xe lam, xe
honda tỏa ra các hướng chở bộ đội ta tiến vào nội đô, mang thực phẩm tiếp tế cho
bộ đội. 15 giờ ngày 29 tháng 3, 10 vạn tên dựa trên căn cứ quân sự liên hợp Đà
Nẵng đã bị tiêu diệt. Ta làm chủ hoàn toàn thành phố. Nghe tin Đà Nẵng thất thủ.
Những kẻ cầm đầu ngụy quyền ở Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa rục rịch bỏ
chạy. Mỹ bắt đầu rút các cơ quan và lãnh sự, sứ quán ở Nha Trang chuyển hàng ở
Cam Ranh đi.
Từ ngày 26-3 tháng 4, ta giải phóng Bình Định. Sau đó là thị xã Quy Nhơn, Phú
Yên, Khánh Hòa và quân cảng Cam Ranh. Cũng trong thời gian trên, ở chiến
trường B2, ta giải phóng Di Linh, Bảo Lộc và thành phố Đà Lạt. Tiếp theo việc
giải phóng hoàn toàn các tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức Bình Thuận, Bìn Tuy, gần
như toàn bộ địa bàn khu 6 đã được giải phóng.
Ngày 12 tháng 4, Thường vụ Thành ủy Sài Gòn ra nghị quyết về các tổ chức chính
trị và vũ trang nội thành và vùng ven chuẩn bị khẩn trương cho quần chúng nổi
dậy phối hợp với bộ đội chủ lực khi chiến dịch giải phóng Sài Gòn mở màn.
Khoảng 700 cán bộ nội thành và 1000 cán bộ vùng ven đã được chuẩn bị, sẵn sàng
đón thời cơ phát động quần chúng nổi dậy. Gần 40 tổ chức "biến tướng" được
củng cố và trở thành cơ sở của ta ở vùng ven biển và nội thành.
Ngày 20 tháng 4, người Mỹ di tản khỏi Sài Gòn. Ngay đêm đó, địch rút quân khỏi
Xuân Lộc. Hôm sau 21 tháng 4, Thiệu từ chức thời cơ để mở cuộc tiến công vào
Sài Gòn đã chín mùi.
Theo những tin tức tình báo mới nhất lúc đó, Mỹ đành phải chấp nhận ra đi. Chỉ
mới tuần trước, tổng thống Pho còn gây sức ép, đòi quốc hội viện trợ bổ sung khẩn
cấp cho Thiệu thì ngày 18 tháng 4, Pho buộc phải ra lệnh di tản. Kitxinhgiơ tuyên
bố trong một cuộc họp báo rằng "Tình hình chính trị ở Nam Việt Nam phát triển
như thế nào là thuộc vào bản thân người Nam Việt Nam, Mỹ sẵn sàng chấp nhận
giải pháp nào do họ thông qua". Đại sứ Mactin cũng phải thừa nhận: không thể
làm gì hơn là kéo dài sự tồn tại của Sài Gòn trong 1 - 2 tuần. Thành phố có thể rơi
vào tay Bắc Việt và Việt cộng trong vòng mấy tuần nữa.
Ngày 23 tháng 4 trong một bài diễn văn đọc ở đại học Ôlian tổng thống Pho nói:
"Cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam đã kết thúc đối với Mỹ. Không thể giúp người
Nam Việt Nam được nữa. Họ phải đương đầu với bất cứ số phận nào đang chờ họ.
Từ ngày 24, nhiều sứ quán phương Tây ở Sài Gòn đóng cửa. Các công ty hàng
không quốc tế ở Tân Sơn Nhất ngừng hoạt động. Ngày 26 Trần Văn Hương yêu
cầu "quốc hội" trao quyền cho tướng Dương Văn Minh để "Thương lượng với mặt
trận". Cùng ngày hôm đó, Thiệu chuồn ra nước ngoài.
Tại mặt trận Sài Gòn, ngày 30 tháng 4, trên cả năm hướng, các cánh quân đồng
loạt tiến vào đánh chiếm các mục tiêu trong thành phố.
Trên hướng Đông 5 giờ sáng, mũi thọc sâu của binh đoàn 2 được một phân đội đặc
công phối hợp và dẫn đường bắt đầu vượt cầu xa lộ sông Đồng Nai, tiêu diệt địch
ở trường huấn luyện Thủ Đức rồi tiến về cầu xa lộ Sài Gòn. Sau khi tiêu diệt địch
ở cầu Thị Nghè rồi tiến về dinh Độc Lập. Tổ đặc công đã dẫn đường cho xe tăng
tiến vào cơ quan đầu não của chính quyền địch. Dương Văn Minh đầu hàng. Cờ
cách mạng được treo lên lúc 11 giờ 30.
Lực lượng còn lại của quân đoàn chiếm đài phát thanh, nhà ngân hàng, trụ sở Bộ
Quốc phòng, Bộ tư lệnh Hải quân, khu Long Bình, thị xã Vũng Tàu và đảo Cần
Giờ, sân bay Biên Hòa, thị xã Biên Hòa, Thủ Đức.
Trên hướng bắc, quân đoàn 1 tiến đánh Lái Thiêu, cầu Bình Triệu, tiến vào Bộ
tổng tham mưu ngụy, bắt liên tục các đội biệt động Z28, đánh chi khu quận l?Lái
Thiêu, Gò Vấp, căn cứ Phú Lợi, tiểu khu Bình Dương, quận l?Bến Cát và làm chủ
thị xã Thủ Dầu Một.
Hướng Tây Bắc, quân đoàn 3 tiến công vào ngã tư Bảy Hiền, sân bay Tân Sơn
Nhất, đánh chiếm bộ tư lệnh quân dù và liên lạc với phái đoàn quân sự của ta ở
"trại Đavit" và tiến thẳng vào bộ tổng tham mưu Ngụy; Cũng trong thời gian này,
một tiểu đoàn bộ binh có xe tăng dẫn đầu cũng tiến về hướng dinh Độc Lập.
Trên hướng Tây: Trung đoàn 1 đoàn 232 đánh chiếm ngã ba Bà Quẹo phát triển về
ngã tư Bảy Hiền rồi tiến về bộ tư lệnh biệt khu thủ đô; cũng có trung đoàn 2 của sư
đoàn 9 tiến về đánh dinh Độc Lập.
Trên hướng Nam: Trung đoàn 24 và 429 đặc công tiến đánh ngã ba Bình Hưng
Đông cầu Nhị Thiên Đường, cầu Ông Thìn, ngã ba An Phú, bộ tư lệnh hải quân,
cảng Bạch Đằng, chi khu quận l?Nhà Bè.
Như vậy, ngay trong sáng 30 tháng 4, các binh đoàn đột kích thọc sâu đã từ các
hướng đồng loạt tiến công vào nội đô và đến trưa đã chiếm được 5 mục tiêu chủ
yếu: dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu, Biệt khu thủ đô, Tổng nha cảnh sát và sân
bay Tân Sơn Nhất.
Với chiến thắng trong chiến dịch lịch sử này, lời tiên tri của Bác năm 1960 đã
thành hiện thực "Toàn dân ta đoàn kết nhất trí bền bỉ đấu tranh thì chậm lắm là 15
năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sẽ sum họp một
nhà".