Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng ở các ngân hàng thương mại nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.65 KB, 48 trang )

Đề án môn học
MỤC LỤC
2.2.3. Thực trạng cho vay tiêu dùng tại Techcombank 29
2.2.3.1. Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay 30
2.2.3.2. Thu lãi CVTD tại Hội sở Techcombank 31
2.2.3.3. Cơ cấu cho vay tiêu dùng 32
2.2.3.4. Số lượng các khoản vay tiêu dùng 35
2.2.3.5. Tỷ lệ nợ quá hạn CVTD/Tổng dư nợ cho vay 35
2.2.4. Một số đánh giá chung về hoạt động cho vay tiêu dùng tại Techcombank khu vực Hà
Nội 36
2.2.4.1. Đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng trong hoạt động cho vay
tiêu dùng. 36
2.2.4.2. Đánh giá chất lượng hoạt động cho vay tiêu dùng 37
2.5.1. Hạn chế 38
2.5.2. Thuận lợi 40
2.5.3. Thách thức 40
2.5.4. Cơ hội 41
LỜI MỞ ĐẦU
Trong vòng 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam có dự tăng trưởng vượt bậc,
đời sống của người dõn càng ngày được cải thiện rừ rệt. Thu nhập của người dõn, đặc
biệt ở những thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh khá cao, khoảng
trên 1000$/năm. Hệ quả tất yếu của nguồn thu nhập ngày càng tăng cao sẽ là mức sống
của người dõn.
Khi mức sống tăng lên, con người sẽ có những nhu cầu cao hơn về một cuộc
sống với đầy đủ tiện nghi hiện đại. Với một bộ phận giới trẻ có thu nhập ổn định, nhu
cầu đó có thể là một căn hộ với đầy đủ tiện nghi, thậm chí cả một chiếc xe hơi đời
mới. Việc đáp ứng các nhu cầu này đòi hỏi một nguồn tài chớnh tương đối lớn. Vì thế,
các sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngõn hàng đang ngày càng thu hút giới trẻ. Trên
thực tế, vay tiêu dùng không phải xa lạ với nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, dù
mới phát triển, nhưng thị trưũng cho vay tiêu dùng tỏ ra có rất nhiều tiềm năng mang
lại khả năng sinh lợi cao cho các tổ chức tín dụng.


Tiêu dùng là nhu cầu tất yếu của con người. Trước kia trong giai đoạn chiến
tranh nghèo đói nhu cầu của con người chỉ là những nhu cầu cần thiết nhất : ăn no,
mặc ấm….thì ngày nay nhu cầu của con người đã không chỉ là như vậy nữa. Mức sống
càng cải thiện, thu nhập tăng cao, người dõn càng có nhu cầu sửa sang mua sắm nhà
1
Đề án môn học
cửa, mua sắm đồ dùng ‘xa xỉ” đắt tiền hay đi du lịch…nhưng nếu chờ cho đến khi có
đủ nguồn tài chớnh để tài trợ cho những nhu cầu tiêu dùng này thì sẽ bỏ lỡ những cơ
hội khác hoặc họ phải chắt chiu dành dụm trong nhiều năm mới có đủ. Vì vậy cho vay
tiêu dùng xuất hiện là “vị cứu tinh ” cho những ngưũi tiêu dùng muốn thoả món nhu
cầu tiêu dùng mà không phải chờ đợi lõu.
Trong xu thế hiện đại hoá ngày nay, các ngõnhàng thương mại khồn ngừng mở
rông hoạt động cho vay tiêu dùng để thu hút khách hàng cũng như tăng thu lợi nhuận
chi ngõn hàng. Có thể nói rằng tín dụng tiêu dùng là hoạt động có nhiều tiềm năng mà
các ngõn hàng thương mại cần thiết mở rộng phát triển.
Kết cấu đề án gồm 3 chương:
Chương 1 : Lý luận chung về cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng về hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương
mại ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Ngân hàng –Tài chính, đặc
biệt là THS. Đoàn Phương Thảo đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn để em có thể hoàn
thành tốt bài đề án môn học này.
2
Đề án môn học
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1) Khái niệm về ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quảntọng đóng vai trò vô cùng
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Lịch sử ra đời của các ngân hàng gắn liền với
lịch sử phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá và lịch sử phát triển của tiền tệ.
Hoạt động ngân hàng ban đầu có nguồn gốc từ hoạt động lưu giữ hộ, thanh toán chi trả
hộ và tiếp đến là sự phát triển hoạt động cho vay và tiếp đến là sự phát triển của hoạt
động cho vay và các hoạt động khá.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh
tế.Các cá nhân, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và các cơ uan Nhà nước đều có thể mở
tài khoản tại ngân hàng để gửi món tiền mà mình đang sở hữu vào đó. Ngân hàng đóng
vai trò là người thủ quỹ của xã hội. Khi gửi tiền vào ngân hàng, bên cạnh tính an toàn
các chủ thể gửi tiền cũn cú nguồn thu nhập từ lãi suất tiền gửi.
Ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng cho hàng triệu hộ tiêu dùng ( cá nhân,
hộ gia đình) để mua sắm đồ dùng gia đình, trang trải chi phí học tập, sử chữa và xây
dựng nhà. Đối với doanh nghiệp, ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan
trọng cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp để bổ sung vốn lưu động, mua sắm máy
3
Đề án môn học
móc thiết bị, xây dựng nhà máy. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những
thành viên quan trọng nhất trên thị trường trái phiếu do chính quyền địa phương phát
hành để tài trợ cho cỏc cụng rỡnh công cộng, xây dựng cơ bản.
Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng cần thanh toán cho các khoản mua hàng
hoá, dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử.
Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế, các ngân hàng còn cung cấp thêm các dịch
vụ mới như tư vấn tài chính, thực hiện đầu tư trên thị trường chứng khoán, đầu tư vào
bất động sản, các dịch vụ bảo lãnh ….
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính
sách tiền tệ nhằm góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục
tiêu xã hội.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng trong nền kinh tế, là
chỡa khoỏ cho sự phát triển kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức

năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Thực tế, rất nhiều
tổ chức tài chính khác đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng, vi vậy cần có
một cách tiếp cận đúng đắn về ngân hàng. Tuy nhiên cách tiếp cận thận trọng nhất là
xem xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp : “ Ngân
hàng là các tổ chức tài chính cung cấpmột cách đa dạng nhất -đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với
bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1) Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới
chất lượng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có thể huy động từ các nguồn sau :
*) Nguồn tiền gửi :
Tiền gửi là đầu vào sống còn trong hoạt động của ngân hàng. Đây là nguồn vốn
tài chính cơ bản dùng để tài trợ cho các khoản cho vay, đầu tư tạo lợi nhuận để đảm
bảo sự phát triển vững mạnh của ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động,
nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách
hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền gửi của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
4
Đề án môn học
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của
ngân hàng. Trong môi trường cạnh tranh, để có thể huy động được nguốn lớn và có
chất lượng, các ngân hàng không ngừng đưa ra các sản phẩm mới nhằm thu hút khách
hàng: như tiền gửi thanh toán , tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm….Khi huy động
từ nguồn này các ngân hàng phải mất chi phí đó là lãi suất tiền gửi trả cho khách hàng.
Ngày nay để có thể thu hút được nhiều khách hàng đến gửi tiền các ngân hàng còn
phải cú chiộn lược cụ thể, bên cạnh chính sách về lãi suất hợp lý các ngân hàng còn
phải cung cấp thêm các tiện ớch khỏc cho khách hàng, nhằm phù hợp với yêu cầu và
mục đích của khách hàng.
*) Nguồn tiền vay.
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi

cần, ngân hàng thường vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy
động bị hạn chế, bao gồm các nguồn sau: vay Ngân hàng Nhà nước, vay các tổ chức
tín dụng khác, vay trên thị trường vốn. Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn
thường thấp hơn nguồn tiền gửi. Các khoản đi vay thường là vô thời hạn và quy mô
xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng.
*) Nguồn vốn khác.
Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ
thác đầu tư, uỷ thác giải ngân … Ngân hàng thực hiện các dịch vụ trên thường là các
ngân hàng uy tín, chất lượng, có công nghệ hiện đại. Ngoài ra, các hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt có thể hỡnh nờn nguồn trong thanh toán ( séc trong quá trình
chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C …) , các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa
trả… Phần lớn các nguồn vốn khác ngân hàng không trả lãi. Tuy nhiên chi phí để có
và duy trì chúng là rất đáng kể. Nguồn này không thường xuyên, không phổ biến và
chiếm tỷ trọng nhỏ tổng nguồn vốn ngân hàng.
1.1.2.2.Hoạt động sử dụng vốn.
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là huy động vốn để sử dụng nhằm
mục đích thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo nện các loại tái sản
khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan
trọng. Bao gồm các loại sau :
*) Ngân quỹ.
5
Đề án môn học
Ngân quỹ của một ngân hàng bao gồm : tiền mặt tại két, tiền gửi tại ngân hàng
khác). Đây là khoản mục không sinh lời, được giữ chủ yếu nhằm đáp ứng yêu cầu
chi trả cho khách hàng gửi tiền, yêu cầu thanh toán bù trừ, mua dịch vụ và yêu cầu
dự trữ theo luật định. Quy mô của những khoản này có xu hướng giảm thấp cùng
với sự phát triển của các hệ thống kế toán, thanh toán và sự nâng cao trình độ quản
lý của các ngân hàng.
*) Chứng khoán.
Ngân hàng giữ nhiều loại chứng khoán, có thể phân loại theo nhiều tiêu thức,

như tính thanh khoản, theo chủ thể phát hành, theo mục tiêu nắm giữ
Bao gồm : Chứng khoán của Chính phủ ( Trung ương hoặc địa phương ),
Chứng khoán của các ngân hàng khỏc, cỏc công ty tài chính ( bao gồm các cổ phiếu và
các giấy nợ khác do các ngân hàng, các công ty tài chính phát hành hoặc chấp nhận
thanh toán ), Chứng khoán của các công ty khác ,,
Ngân hàng giữ chứng khoán vỡ chỳng mang lại thu nhập cho ngân hàng và có
thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Mặt khác, ngân hàng cũng nắm chứng
khoán công ty để thực hiện quyền tham dự, kiểm soát hoạt động của công ty.
*) Cho vay.
Cho vay là loịa tài sản chủ yếu trong tổng danh mục tài sản cua các ngân hàng,
thường chiếm trên 70% tổng tài sản cảu các ngân hàng và cũng mang lại nguồn thu nhập
chính cho ngân hàng. Khoản mục cho vay hình thành khi ngân hàng cho khách hàng vay
một khoản vốn và đổi lại được khách hàng trao cho một giấy nhận nợ và cam kết sẽ
hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian xác định. Loại tài sản này có thể được phân
chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Nếu theo thời gian thì ta có thể phân thành cho vay
ngắn hạn, cho vay trung hạn, cho vay dài hạn. Nếu theo tính chất bảo đảm thì chia thành
cho vay có bảo đảm và cho vay không có bảo đảm. Nếu theo hạn mức tín dụng thì có
thể chia thành cho vay trong hạn mức và cho vay ngoài hạn mức… Nhìn chung cho vay
là loại tài sản mang tính rủi ro cao nhất, vì vậy việc tìm kiếm và lựa chọn khách hàng
phù hợp là công việc cần thiết và đồi hỏi nhiều chi phí của ngân hàng.
*) Đầu tư.
Hoạt động cho vay tuy mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng nhưng cũng
hàm chứa nhiều rủi ro. Vì vậy các ngân hàng còn sử dụng nguồn vốn của mình để đầu
6
Đề án môn học
tư, một mặc phân tán rủi ro mặt khác các hoạt động đầu tư còn mang lại một nguồn thu
nhập đáng kể cho ngân hàng và có thể thực hiện được mục tiêu thâm nhập thị
truờng… Các ngân hàng có thể hùn vốn vào các doanh nghiệp để trở thành một thành
viên, đầu tư vào các dự án.
*) Các hoạt động sử dụng vốn khác.

Các hoạt động quảng cáo, khuyếch trương sản phẩm, các chương trình tài trợ
khụng vỡ lợi nhuận…
1.1.2.3) Hoạt động trung gian
Ngân hàng cung cấp các dịch vụ tài chính co các đối tượng khách hàng khách
nhau, bao gồm : thanh toán không dùng tiền mặt (séc, L/C, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu
), chuyển tiền, bảo lãnh, quản lý ngân quỹ, cung cấp các dịch vụ đại lý…Một xu thế tất
yếu ngày nay của các ngân hàng thương mại là phai đa dạng hoỏ cỏc sản phẩm dịch
vụ, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu
khách hàng. Khi cung cấp các dịch vụ này ngân hàng sẽ có một nguồn thu nhập đó là
từ chi phí dịch vụ. Trong tương lai thỡ cỏc hoạt động này sẽ được ngân hàng chú trọng
phát triển hơn nữa nhằm tăng cường khả năng cạnh trạnh, đem lại lợi nhuận lớn cho
ngân hàng.
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯONG MẠI.
1.2.1) Khái niệm về cho vay tiêu dùng.
Trong nền kinh tế thị trưũng, ngân hàng thương mại chịu sự cạnh tranh gay gắt
của nhiều đối thủ, không chỉ là các ngân hàng thưong mại khác mà cũn cú cỏc tổ chức
tín dụng. Tuy nhiờn kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, các ngân hàng đã liên tục
phát triển và trở thành những tổ chức cung cấp chính về lĩnh vực cho vay tiêu dùng.
Có được điều này là do ngân hàng đã thu hút được nguồn tiền gửi trong dân cư. Các cá
nhân và hộ gia đình nhận thức được rằng, họ có thể vay lại tiền từ chính ngân hàng khi
họ có nhu cầu.
Vào những năm 1980, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã tạo ra
nhiều phương tiện kết nối với khách hàng như Internet, máy rút tiền tư động Bên cạnh
đó với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, đời sống của nhân dân đã được cải thiện
7
Đề án môn học
đáng kể, nhu cầu chi tiêu phục vụ đời sống ngày càng cao. Đó là điều kiện thuận lợi cho
hoạt động ngân hàng nói chung, lĩnh vực cho vay tiêu dùng nới riêng phát triển.
Cho vay tiêu dùng ra đời đã giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữua tiêu dùng và

khả năng thanh toán của cá nhân người tiêu dùng. Trên thựuctế là nhiều khi người tiêu
dùng chưa có ngay đượcnhững khoản thu nhập lớn ở hiện tại mà phải qua quá trình
tích lũy lâu dài. Khi đó ngân hàng có thể cấp tín dụng cho khách hàng. Người tiêu
dùng được sử dụng hàng hoá mà họ muốn, tất nhiên là với cam kết hoàn trả đúng thời
hạn và đầy đủ.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về cho vay tiêu dùng, tuy nhiên ta có thể hiểu:”
Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng, trong đó ngân hàng thoả thuận để
khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình dử dụng mộ khoản tiền với mục đích tiêu
dùng theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định”.Các
khoản cho vay tiêu dùng là nguồn tài chính quan trọng giúp người tiêu dùng có thể
trang trải các nhu cầu trong cuộc sống như nhà ở, phương tiện đi lại, tiện nghi sinh
hoạt, học tập du lịch, y tế …trước khi họ có đủ khả năng về tài chính để hưởng thụ.
1.2.2. Tớnh tất yếu của hoạt động cho vay tiêu dùng.
*) Đối tượng của cho vay tiêu dùng là các nhu cầu vay của cá nhân tuỳ thuộc
vào tình hình tài chính của họ và giá cả của hàng hoá dịch vụ mà họ có nhu cầu. Ở
những cá nhân có thu nhập thấp, nhu cầu tín dụng thường không cao nó chỉ xuất hiện
nhằm tạo ra sựu cân đối giữa thu nhập và chi tiờu(a). Với cá nhân có thu nhập trung
bình, nhu cầu về tín dụng có xu hướng tăng hơn do ý muốn vay mượn để tiêu dùng
hơn là dùng khoản tiền dự phòng của mỡnh(b). Với những người có thu nhập cao, nhu
cầu tín dụng nảy sinh nhằm tăng khả năng thanh toỏn(c).
Trong ba nhúm trờn thỡ (b) và (c) là những nhúm cú nhu cầu về cho vay tiêu
dùng lớn, là thị trường mà các ngân hàng quan tâm. Những thông tin về thu nhập và
mức ổn định trong thu nhập là những thông tin quan trọng đối với các cán bộ tín dụng.
Các cá nhân có nguồn thu nhập cao và ổn định sẽ được đánh giá cao về khả năng thực
hiện được nguyên tắc hoàn trả gốc và lãi vay đúng thời hạn.
Các cá nhân ở đây là những cá nhân có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành
vi dân sự (cũng có thể họ đại diện cho một hộ gia đình) : như công nhân viên chức nhà
nước, người lao động tự do….
8
Đề án môn học

*) Nhu cầu vay tiêu dùng gia tăng mạnh mẽ gắn liền với nhu cầu về hàng tiêu dùng
lâu bền như nhà ở, xe ô tô, nhu cầu đi du học, du lịch của klhỏch hàng là hờt sức rộng
lớn. cho vay tiêu dùng nó không chỉ có vai trò hết sức quan trọng đối với người tiêu mà
nó cũn tạo điều kiện cho người sản xuất phát triển, đồng thời nó cũn có vị trí cao trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng của nền
kinh tế xã hội
*) Đối với người tiêu dùng.
Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng sẽ giúp cho người tiêu dùng có khả
năng mua sắm những hàng hoá cần thiết có giá trị cao, thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và
cải thiện đời sống.
Trong cuộc sống, nhu cầu của con người là rất phong phú và đa dạng, nhưng
không phải lúc nào thu nhập và tích luỹ cũng cho phép họ đáp ứng nhu cầu đó. Thông
thường, sau một thời gian tích luỹ người ta mới có thể đáp ứng được nhu cầu. Vì thế
con người thường chỉ được hưởng thụ khi về già. Tuy nhiên lúc này thì lợi ích cảm
nhận được từ sự hưởng thụ có xu hướng giảm theo tuổi già. Trên thực tế có những nhu
cầu mà ngay lập tức người ta không thể có một khoản tiền lớn để đáp ứng. Ngân hàng
với hoạt động này đó giỳp người tiêu dùng kết hợp được nhu cầu hiện tại và khả năng
thanh toán trong tương lai. Hoạt động này đặc biệt quan trọng khi cá nhân cú cỏc chi
tiêu cấp bách như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục, y tế…
Ngoài ra cho vay tiêu dùng còn kích thích người tiêu dùng lao động để có thể
nhanh chóng trả nợ cho ngân hàng, thực sự trở thành người sở hữu đối với hàng hoá
dịch vụ đó. Có thể núi cỏc cá nhân và hộ gia đình là những người được hưởng lợi
nhiều nhất từ hoạt động cho vay tiêu dùng.
Tuy vậy, nếu người tiêu dùng quá lạm dụng hoạt động này thì cũng rất tai hại.
Họ có thể chi tiêu vượt quá mức cho phép, làm giảm khả năng tích luỹ và tiết kiệm
trong tương lai, có thể mất khă năng chi trả và gặp nhiều phiền toái trong cuộc sống.
*) Đối với nhà sản xuất
Khi hàng hoá được sản xuất ra, các nhà sản xuất đều mong muốn tiêu thụ được
nhiều, nhanh chóng thu hồi vốn và có lợi nhuận. Tuy nhiên không phải lúc nào khách
hàng cũng có thể thanh toán được ngay nhất là các sản phẩm có giá trị. Cho vay tiêu

dùng của ngân hàng đã góp phần giải quyết sựu ùn tắc trong tiêu thụ hàng hoá của các
9
Đề án môn học
nhà sản xuất. Từ đó, nhà sản xuất có thể thu được lợi nhuận, mở rộng sản xuất kinh
doanh, mở rộng thị trường. Nhưng đồng thời, cho vay tiêu dùng lại tạo ra sự cạnh
tranh mạnh mẽ giữa những người sản xuất, các nhà kinh doanh cả về mẫu mã, chủng
loại và chất lượng sản phẩm.
*) Đối với ngân hàng thương mại
Trước khi thực hiện cho vay thì ngân hàng phải huy động vốn từ cỏc cá nhõ, tổ
chức, xã hội. Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm một tỷ lệ lớn
trong tổng tài sản của các ngân hàng (khoảng 70%). Hoạt động cho vay đòi hỏi ngân
hàng phải cố gắng và nỗ lực rất lớn để có thể đáp ứng được nhu cầu về tín dụng trong
nền kinh tế một cách tốt nhật Với hoạt độngnày, các ngân hàng có thể thu được lợi
nhuận thông qua sựu chênh lệch về lãi suất. Lãi suất cho vay tiêu dùng là cao cho nên
với số lượng cỏc mún vay lớn sẽ tạo nên lợi nhuận đáng kể cho các ngân hàng. Vì thế,
không có lý do gí để ngân hàng bỏ qua thị trưũng khách hàng cá nhân. Một thị trưũng
ngày càng to lớn.
Mặc dù cho vay tiêu dùng có nhiều chi phí và rủi ro cao, song ngày nay các
ngân hàng đều tập trung khai thác vì hoạt động này giúp ngân hàng tạo thói quen cho
nhân dân khi tiếp cận với các dịch vụ tiện ích ngân hàng, giúp ngân hàng mửo rộng
quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động tiền gửi cho ngân hàng;
mặt khác giúp ngân hàng đa dạng hoỏ cỏc sản phẩm dịch vụ, phân tán rủi ro (thựuc
hiện nguyên tắc trong kinh doanh “ không bỏ trứng vào cùng một giỏ”) và nâng cao
thu nhập cho ngân hàng.
Ta có thể thấy được hoạt động cho vay tiêu dùng có một vị trí rất quan trọng
đối với hoạt động cho vay của ngõn hàng thương mại. Góp phần tạo ra thu nhập cao
cho ngõn hàng.
*) Đối với nền kinh tế-xã hội.
Con người là động lực phát triển kinh tế xã hội. Khi cuộc sống con người được
đảm bảo sẽ là nguồn kích thích họ hăng say lao động, phát huy khả năng của mình,

không ngừng tạo ra nhiều của cải vật chất. Việc ngân hàng thực hiện cho vay tiêu dùng
có thể giúp người tiêu dùng thoả mãn nhưũng nhu cầu chi tiêu hiện tại với khả năng
thanh toán trong tương lai. Điều này giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người
dân, tạo điều kiện cho con người được phát triển hoàn thiện mình. Cho vay tiêu dùng
10
Đề án môn học
còn là đòn bẩy quan trọng kích thích nền sản xuất phỏt trỉờn (kớch cầu), tạo điều kiện
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, góp phần xoỏ đúi giảm nghèo, giảm thất nghiệp … ngoài
ra hình thức cho vay tiêu dùng còn góp phần đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi, từ đó giải
quyết tốt giải quyết tốt các mối quan hệ khác trong xã hội.
1.2.3) Đặc điểm cho vay tiêu dùng.
Nhìn chung, cho vay tiêu dùng có đặc điểm là rủi ro hơn các hình thức cấp tín
dụng khác. Hoạt động cho vay tiêu dùng có những nét đặc trưng, cụ thể như sau:
• Quy mô nhỏ nhưng số lượng cỏc mún vay lớn.
Thông thường không một ngân hàng nào cho vay tiêu dùng với 100% nhu cầu
vốn, khách hàng phải tích lũy một tỷ lệ nhất định so với tổng nhu cầu vốn cần đáp ứng
cho nhu cầu tiêu dùng. Mặt khác các sản phẩm mà khách hàng có nhu cầu tiêu dùng
thường có giá trị không lớn, không quá đắt đỏ (kể cả xây nhà hoặc sửa chữa nhà ). Nhu
cầu vốn cho vay tiêu dùng nhỏ hơn rất nhiều so với cỏc mớn vay kinh doanh sản xuất
khác. Tuy nhiên số lượng cỏc mún vay tiêu dùng thì lại lớn bởi vì đây là nhu cầu vay
phổ biến, thường xuyên đối với mọi tầng lớp dân cư. Khi chất lượng cuộc sống và
trình độ dân trí ngày càng cao, người dân càng có nhu cầu vay vốn ngân hàng để phục
vụ mục đích tiêu dùng, nhằm nâng cao và cải thiện mức sống.
• Các khoản vay tiêu dùng thưũng có lãi xuất “cứng nhắc”.
Các khoản vay tiêu dùng thường được áp dụng một lãi suất cố định trong suốt thời
gian của hợp đồng đặc biệt là hình thức cho vay trả góp. Tuy nhiên các trường hợp với
thời gian trung và dài hạn thì thường áp dụng mức lãi suất thả nổi (thông thường là lãi
suất huy động cộng với một biên độ nhất định tuỳ thuộc vào từng ngân hàng).
• Đối tưọng của các khoản cho vay tiêu dùng.
Đó là các cá nhân, hộ gia đình. Nhu cầu vay của cá nhân phụ thuộc vào tình

hình tài chính của họ. Đối với cá nhân có mức thu nhập thấp, nhu cầu tín dụng thường
không cao, nó chỉ xuất hiện nhằm thoả mãn nhu cầu gia đỡng tạo sự cân đối giữa thu
nhập và chi tiêu. Đối với các cá nhân có mức thu nhập trung bình, nhu cầu tín dụng
phát triển mạnh do ý muốn vay mượn để mua hàng tiêu dùng lớn hơn khoản tiền dự
phòng của mình. Đối với những người có thu nhập cao, nhu cầu tín dụng tiêu dùng nảy
sinh nhằm tăng thêm khả năng thanh toán hoặc một khoản tài trợ rất linh hoạt trong
chi tiêu khi mà nguồn vốn của họ đã nằm trong tài khoản đầu tư.
11
Đề án môn học
• Nhu cầu cho vay tiêu dùng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế.
Nhu cầu cho vay tiêu dùng không chỉ phụ thuộc vào tình hình tài chính mà còn
phụ thuộc vào tình hình kinh tế ở những giai đoạn cụ thể:
Khi nền kinh tế phát triển, người dân cảm thấy lạc quan vào tương lai, đặc biệt
họ kỳ vọng vào thu nhập được nâng cao. Khi đó họ tăng nhu cầu hưởng thụ và các
khoản vay tiêu dùng có xu hướng tăng thêm.
Khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng: Nhiều cá nhân hộ gia đình không tin
tưởng vào tương lai đồng nghĩa với tình trạng thất nghiệp tăng lên tất yếu họ sẽ hạn
chế tiêu dùng ở thời điểm hiện tại.
Mặt khác, một khoản vay chỉ có thể được chấp nhận khi mục đích vay tiền của
khách hàng phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng trong từng giai đoạn của
nền kinh tế.
• Các khoản cho vay tiêu dùng thường có chi phí lớn.
Trong các hình thức cho vay của ngân hàng thì cho vay tiêu dùng là một trong
những loại có chi phí lớn nhất. Do quy mô nhỏ, số lượng cỏc mún vay nhiều nờn cỏc
ngân hàng phải mất nhiều thời gian và công sức cho công việc cho vay. Khi tiếp nhạn
hồ sơ khách hàng ngân hàng phải thực hiện việc thẩm định khách hàng, tiến hành thu
thập thông tin về khách hàng (tư cách pháp lý, mức thu nhập ) tuy nhiên khách hàng
thường không muốn công khai về tài chính, muốn che giấu một số thông tin. Sau khi
giải ngân, ngân hàng phải mất chi phí quản lý, kiểm tra giám sát khoản vay một cách
thường xuyên.

• Các khoản cho vay thưuơng có rủi ro cao.
Các khoản cho vay tiêu dùng chịu tác động từ các yếu tố khách quan và chủ
quan. Các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch bệnh, mất mùa, thất nghiệp,lói suất và
chu kỳ kinh tế. Khi gặp thiên tai, dịch bệnh thì nguồn thu nhập của các cá nhân và hộ
gia đình bị ảnh hưởng, dẫn tới việc trả nợ ngân hàng khó khăn. Do lãi suất cho vay cố
định nên khi chi phí huy động vốn tăng lên ngân hàng gặp rủi ro. Khi nền kinh tế hưng
thịnh thì nhu cầu tiêu dùng tăng lên nhưng khi nền kinh tế suy thoái thì người dân lại
hạn chế tiêu dùng, tăng cường tích luỹ.
12
Đề án môn học
Ngoài ra cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan từu
chình người tiêu dùng. Chất lượng các thông tin mà khách hàng cung cấp thường
không cao. Các thông tin về tư cách của khách hàng rất khó xác định song lại rất quan
trọng, nó quyết định sự hoàn trả của khoản vay. Nguồn trả nợ có khả năng thay đổi
nhanh chóng khi người vay thay đổi nơi làm việc, thay đổi vị trí công việc hoặc có sự
thay đổi về sức khoẻ.Hơn nữa, một số khách hàng còn cố tình chõy ỡ trong việc trả
gốc và lãi khi đến hạn, dẫn tới tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên. Do vậy có thể nói hoạt động
cho vay tiờu dựngcú tớnh rủi ro cao.
• Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản mục mang lại lợi nhuận cao cho
ngân hàng.
Các khoản cho vay tiêu dùng có chi phí va rủi ro cao nờn cỏc khoản vay này
thường có lãi suất cao, nó bù đắp cho các khoản trên và mang lại lợi nhuận cho ngân
hàng. Lãi suất cho vay tiêu dùng luôn là một trong những lãi suất hấp dẫn nhất trên thị
truờng tài chính. Do số lượng món vay nhiều nên lợi nhuận ngân hàng thu được từ hoạt
động này là rất đáng kể so với tổng lợi nhuận của ngân hàng. Chính vì vậy mà ngày nay
các ngân hàng không ngừng đẩy mạnh phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng, coi đó là
một trong những lĩnh vực có vai trò chủ đạo trong hoạt động ngân hàng.
• Mức thu nhập của khách hàng là một biến số quan trọng ảnh hưởng tới nhu
cầu vay tiêu dùng của khách hạng
Những người có thu nhập cao và ổn định thường có xu hướng vay nhiều hơn

thu nhập bởi họ cho rằng thu nhập trong tương lai có thể đảm bảo chi trả cho nhu cầu
hiện tại. Với họ, việc vay mượn được xem như là một công cụ để đạt được mức sống
như họ mong muốn.
• Tài sản đảm bảo
Như bất kỳ món vay nào khác, vay tiêu dùng cũng đòi hỏi một tài sản bảo đảm
cho khoản vay. Tài sản đó có thể là tài sản độc lập, hoặc cũng có thể là chính từ tài sản
hình thành từ vốn vay ngân hàng. Cho dù là tài sản nào thì ngân hàng cũng phải thẩm
định kỹ càng trước khi cho vay nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Những tài sản này
sẽ là nguồn trả nợ thứ hai cho ngân khi mà nguồn thứ nhất là thu nhập của khách hàng
không đảm bảo.
1.2.4) Phân loại cho vay tiêu dùng.
13
Đề án môn học
Để có cái nhìn tổng quát về cho vay tiêu dùng, việc phân loại cho vay tiêu dùng
thường được căn cứ trên nhiều tiêu thức khác nhau:
1.2.4.1) Căn cứ theo thời hạn cho vay.
Theo tiêu thức này thì cho vay tiêu dùng chia thành 3 loại sau:
Cho vay tiêu dùng ngắn hạn: bao gồm những khoản cho vay có thời hạn vay tối
đa là một năm; Cho vay tiêu dùng trung hạn : là những khoản vay có thời hạn từ 1 năm
cho đến 5 năm; Cho vay tiêu dùng dài hạn: bao gồm những khoản vay có thời hạn vay
trên 5 năm.
1.2.4.2) Theo mục đích vay.
Có thể phân loại cho vay tiêu dùng thành hai loại:
+ Cho vay tiêu dùng cư trú : là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây
dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình.
+ Cho vay tiêu dùng phi cư trú: là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời
sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng gia đình, chi phí học hành, giải trí và du lịch….
1.2.4.3) Theo phương thức hoàn trả.
Cho vay tiêu dùng có thể chia thành ba loại sau:
*) Cho vay tiêu dùng phi trả góp.

Theo phương thức này tiền vay được khách hàng thanh toán cho ngân hàng chỉ
một lần khi đến hạn. Thường thỡ cỏc khoản cho vay tiêu dùng phi trả góp chỉ được cấp
cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài.
Với phương thức này, tiền gốc và lãi được thanh toán như sau:
- Tiền gốc (C) được thanh toán một lần vào cuối hạn cho vay
- Tiền lãi mỗi kỳ (Ck ) được thanh toán đều đặn theo từng kỳ hạn :
Ck = C x i
i: lãi suất cho vay mỗi kỳ hạn.
*) Cho vay tiêu dùng tuần hoàn
Đây là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng
sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản
vãng lai. Theo phương thức này, trong thời gian cho vay được thoả thuận trứơc, căn
cứu vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng
cho phép thực hiện việc vay và trả nựo nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn
14
Đề án môn học
mức tín dụng. Nếu chi vượt quá hạn mức đó, ngân hàng sẽ ngừng cung cấp dịch vụ
cho khách hàng.
Lãi phải trả mỗi kỳ có thể tính dựa trên một trong ba cách sau:
- Lãi suất được tính theo dư nợ thực tế của khách hàng trước khi có sự điều
chỉnh. Theo phưong thức này số dư dùng để tớnh lói là số dư nợ mỗi kỳ trước khi
khoản nợ được thanh toán.
- Lãi suất được tính theo dư nợ thực tế có tính đến sự điều chỉnh. Theo phuơng
thức này số dư nợ được dùng để tớnh lói là số dư cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách
hàng đã thanh toán nợ cho ngân hàng.
- Lãi suất được tớnh trờn dư nợ bình quân của khách hàng.
Phương pháp này có lợi cho khách hàng vì khách hàng chỉ cần làm thủ tục vay
một lần nhưng có thể vay ngân hàng nhiều lần với số tiền khác nhau. Như vậy chi phí
mà khách hàng bỏ ra giảm đáng kể.Tuy nhiên với phương thức này khách hàng không
thể vay với số tiền lớn và thời hạn dài được.

*) Cho vay tiêu dùng trả góp
Phương thức này chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cho vay tiêu dùng của ngân
hàng. Đây là hình thức cho vay tiêu dùng trong đó người đi vay trả nợ (gồm số tiền gốc và
lãi ) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay.
Phương thức này thưũng được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập
từng định kỳ của người đi vay không đu khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay.
Đối với phương thức này, các ngân hàng thường chú ý tới một số vấn đề cơ
bản sau:
+ Loai tài sản được tài trợ: Thiện chí trả nợ của khách hàng sẽ tốt hơn nếu tài sản
hình thành từ tiền vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tưong lai.
+ Số tiền phải trả trước.
Khách hàng phải có trước một phần vốn tham gia vào quá trình tiêu dùng (tối
thiểu là 30-40% giá trị hàng hoá, dịch vụ). Phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Số tiền
này làm cho người đi vay nghĩ rằng họ chính là người chủ sở hữu của tài sản, mặt khác
có tác dụng hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Số tiền trả trước nhiều hay ít tuỳ thuộc vào
các yếu tố sau:
15
Đề án môn học
- Loại tài sản : Đối với tài sản giảm giá nhanh thì số tiền trả trước nhiều và
ngược lại.
- Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi sử dụng : Nếu tài sản sau khi sử dụng xó
thể bán dễ dàng thì số tiền trả trước ít và ngược lại.
- Mụi trưũng kinh tế.
- Năng lưc tài chính của người đi vay.
+ Chi phí tài trợ : chủ yếu là lãi mà khách hàng phải trả cho ngân hàng và các
chi phí khác có liên quan.
+ Điều khoản thanh toán : các điều khoản thanh toán phải phù hợp đến việc
thanh toán nợ của khách hàng như về số tiền thanh toán mỗi kỳ, kỳ hạn trả nợ cua
khách hàng…
Số tiền khách hàng phải thanh toán cho ngân hàng mỗi định kỳ có thể được tính

bằng một trong các phương pháp sau:
+Phương pháp gộp:
Đây là phương pháp thường được áp dụng trong cho vay tiêu dùng trả góp.
Theo phương pháp này, tiền lãi được tính bằng cách lấy tiền gốc nhân với lãi suất và
thời hạn vay, sau đó cộng gộp vào vốn gốc rồi chia cho kỳ hạn phải thanh toán để tìm
số tiền phải thanh toán ở một định kỳ. Công thức tính toán như sau:
C + I
T = Với : I = C x I x n.
n
Trong đó :
T: Số tiền phải trả nợ cho ngân hàng mỗi kỳ hạn.
C: Vốn gốc.
I: Số lãi vay mà khách hàng phải trả cho ngân hàng.
N: Số kỳ hạn.
i : Lãi suất cho vay mỗi kỳ hạn.
+) Phương pháp lãi đơn.
Theo phương pháp này, vốn gốc người đi vay phải trả từng định kỳ được tính
đều nhau, bằng cách lấy vốn gốc ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán. Cũn lói phải
trả mỗi định kỳ được tớnh trờn số dư nợ còn lại. Công thức tính toán như sau :
Tk= Tv + T
L(K)

16
Đề án môn học
Trong đó :
C
Tv =
n
Với :
T(k) : Số tiền thanh toán ở kỳ k

Tv : Vốn gốc thanh toán mỗi kỳ hạn.
C : Vốn gốc.
N : Số kỳ hạn thanh toán tiền ngay
T
L(K)
:Lãi khách hàng phải trả trong kỳ k
T
L(K)
= ( C- (n-1)) x i
i : Lãi suất cho mỗi kỳ hạn vay
+ Phương pháp hiện giá:
Theo phương pháp này, tiền vay được thanh toán đều nhau ở các kỳ hạn và tính
theo công thức sau:
C x i –
T =
-1
1.2.4.4. Theo nguồn gốc khoản nợ.
Căn cứ vào nguồn gốc khoản nợ thì cho vay tiêu dùng được chia thành :
*) Cho vay tiêu dùng gián tiếp : Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua
các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho
người tiêu dùng. Quá trình cho vay gián tiếp có thể được khái quát qua sơ đồ sau :
(1)
Ngân hàng (4)Công ty bán lẻ Công ty bán lẻ
(5)
(6) (2)(3) (3)
Người tiêu dùng
(1) Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng,
ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền
bán chịu tối đa và loại tài sản bán chịu
17

Đề án môn học
(2) Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá.
Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
(3) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng
(4) Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng.
(5) Ngân hàng thanh toán tiền trả góp cho công ty bán lẻ.
(6) Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng.
Cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số ưu điểm sau:
Hoạt động cho vay gián tiếp có ích cho cả ngân hàng, người tiêu dùng và công
ty bán lẻ. Người tiêu dùng sẽ được mua sắm các hàng hoá và dịch vụ trước rồi mới thu
xếp trả nợ. Các công ty bán lẻ thì bán được nhiều hàng hoá dịch vụ hơn. Còn ngân
hàng thì dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng, giúp ngân hàng tiết kiệm và giảm
được chi phí trong cho vay. Trong trường hợp ngân hàng quan hệ tốt với các công ty
bán lẻ thì việc cho vay gián tiếp an toàn hơn so với cho vay trực tiếp. Qua đó ngân
hàng còn có thể mở rộng mối quan hệ với khách hàng va tạo điều kiện thuận lợi cho
các hoạt động khác của ngân hàng.
Tuy nhiên cho vay tiêu dùng gián tiếp cũn cú một số hạn chế nhất định : Đó là
ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với người tiêu dùng đã được bán chịu (ngân hàng
chỉ có thông tin thông qua các công ty bán lẻ) do vậy việc kiểm tra thông tin về khách
hàng gặp nhiều khó khăn dẫn đến các khả năng lừa đảo, giả mạo; thiếu sự kiểm soát
của ngân hàng (cả trước, trong và sau khi vay vốn) khi công ty bán lẻ thực hiện việc
bán chịu hàng hoá nhất là trong việc lựa chọn khách hàng; kỹ thuật và quy trình
nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao.
Do những nhược điểm trờn nờn có rất nhiều ngân hàng không mặn mà với
phương thức này, hoặc nếu có thì cũng hạn chế, kiểm tra và giám sát chặt chẽ các
khoản vay.
Để có thể thích ứng với từng đối tượng khách hàng, ngân hàng đưa ra các
phương thứuc khác nhau trong quá trình mua các phiếu bán hàng. Cụ thể như sau:
+ Tài trợ truy đòi toàn bộ: Khi bán chịu các khoản nợ cho ngân hàng, các công
ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu người tiêu

dùng không thanh toán cho ngân hàng.
18
Đề án môn học
+ Tài trợ truy đòi hạn chế: Công ty bán lẻ chỉ chịu trách nhiệm trong một giới
hạn nhất định đối với các khoản nợ mà người tiêu dùng không thanh toán cho ngân
hàng, trách nhiệm đó tuỳ thuộc vào điều khoản đã được thoả thuận giữa ngân hàng và
công ty bán lẻ.
+ Tài trợ miễn truy đòi: Sau khi bỏn cỏc khoản nợ cho ngân hàng, các công ty
bán lẻ không chịu trách nhiệm về các khoản nợ có được thanh toán cho ngân hàng
không. Phương thức này rủi ro cao cho ngân hàng nên chi phí tài trợ thường cao.
Ngoài ra chỉ có những công ty tin cậy mới được áp dụng hình thức này.
*) Cho vay tiêu dùng trực tiếp :
Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho
khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ khách hàng.
Cho vay tiêu dùng trực tiếp có thể được khái quát qua sơ đồ sau:

Ngân hàng Công ty bán lẻ
(3)

(1) (5) (2) (4)
Người tiêu dùng

(1) Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay.
(2) Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ.
(3) Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ.
(4) Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng.
(5) Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng.
So với cho vay tiêu dùng gián tiếp, cho vay tiêu dùng trực tiếp có một số ưu
điểm sau:
- Khi ngân hàng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng (trực tiếp là các cán bộ tín

dụng) , các cán bộ tín dụng có thể tiếp nhận được các thông tin một cách chính xác
hơn. Các cán bộ tín dụng là những người được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh
nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên họ có thể đưa ra các quyết định có cơ sở hơn
19
Đề án môn học
so với các công ty bán lẻ. Các nhân viên tín dụng luôn có xu hướng tạo ra các khoản
vay chát lượng tốt, đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Trong khi đó các nhân viên
của công ty bán lẻ lại chú trọng làm sao bán được nhiều hành.
- Hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp
vì khi quan hệ trực tiếp với khách hàng, ngân hàng sẽ xử lý tốt hơn các vấn đề phát sinh,
hơn nữa có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng
- Do đối tưọng khách hàng rất rộng nên việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là
rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng
đến với khách hàng.
1.2.5) Phương pháp cho vay tiêu dùng.
Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng liên quan đến một số lượng rất đụng
cỏc khách hàng. Khi mà số lượng khách hàng lớn thí yêu cầu về một cơ chế kiểm soát
an toàn và hiệu quả đối với việc ra quyết định cho vay là hết sức cần thiết. Trong
nhưũng truờng hợp như vậy, các ngân hàng có thể sử dụng hai phương pháp sau để ra
quyết định:
*) Phương pháp hệ thống điểm: Là tập hợp cỏc tiờu thức khác nhau liên quan
đến từng khách hàng vay tiêu dùng. Mỗi tiêu thức có một điểm số khác nhau, tuỳ theo
từng tiêu thức và tầm quan trọng của nó trong hệ thống cỏc tiờu thức.
Từ cỏc tiờu thức đó sẽ tính được tổng số điểm của một khách hàng. Các ngân
hàng dựa vào tổng số điểm của khách hàng để cho vay. Tuy nhiên, phương pháp hệ
thống điểm số trên phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhưu mụi trưũng, nền kinh tế xã
hội…Nếu các yếu tố này có biến động lớn thì ngân hàng cần phải xem xét điều chỉnh
lại cỏc tiờu thứuc cho phù hợp bảo đảm chất lượng cho vay và thu hồi nợ.
*) Phưong pháp phán đoán: là quá trình, trong đó ngân hàng tiến hành phân
tích, đánh giá toàn bộ thông tin định tính và định lượng về khách hàng nhằm hạn chế

các khoản cho vay có độ rủi ro cao.Vỡ khi quyết định cho vay, ngân hàng cần phải
quan tâm đến nhiều vấn đề khác như khả năng trả nợ của khách hàng nhằm hạn chế
các khoản cho vay có độ rủi ro cao. Vì khi quyết định cho vay, ngân hàng cần phải
quan tâm đến nhiều vấn đề khác như khă năng trả nợ của khách hàng, điều kiện kinh tế
hiện tại của khách hàng, các điều kiện khác của khách hàng có phù hợp với cơ chế,
chính sách của ngân hàng hay khụng…
20
Đề án môn học
1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Tất cả các sự việc hiện tượng đều phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ qua
lại với các sựu vật hiện tượng khác trong quá trình phân tích để tìm ra bản chất của nó.
Hoạt động cho vay tiêu dùng có vai trò và ý nghĩa như vậy, vấn đề ở đây là phải xem
xét các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động này để từ đó tim ra các yếu tố thuận lợi và
hạn chế để tìm cách khắc phục. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu
dùng có thể chia thành hai nhóm : cỏc nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan.
1.3.1. Các nhân tố khách quan.
- Mụi trưũng kinh tế.
Môi trường kinh tế là yếu tố mang tính chất tổng thể tác đọng tới mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh nói chung và lĩnh vực ngân hàng nới riêng. Môi trường kinh tế
với đặc trưng của nó là: trình độ phát triển kinh tế, sự ổn định kinh tế, thu nhập quốc
dân, thu nhập bình quân đầu người, chính sách đầu tư, chính sách tiền tệ và các yếu tố
kỏhc sẽ có những tác động mạnh tới nhu cầu và cách thức tiêu dùng của người dân.
Sự thay đổi của mụi trưũng kinh tế, một mặt nó tạo ra nhiều cơ hội cho ngân
hàng, mặt khác nó cũng tạo ra không ít thách thức cho ngân hàng đòi hỏi ngân hàng
cần phải có sự điều chỉnh để có thể tồn tại và phát triển.
Khi nên kinh tế tăng trưởng, ổn định hay suy thoái đều có tác động trực tiếp nên
thu nhập của người dân và ảnh hưởng gián tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng
trong đó có hoạt đông cho vay tiêu dùng.
Tình hình kinh tế thế giới cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động khinh

doanh của ngân hàng. Với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, sẽ có sự xuất hiện
của những nhà đầu tư, các tập đoàn tài chính nước ngoài làm cho môi trường cạnh
trạnh trong nước trở nên gay gắt, quyết liệt hơn, đòi hỏi lĩnh vực ngân hàng cần có
những thay đổi mạnh mẽ. Đó là việc áp dụng công nghệ mới, sản phẩm mới, nâng cao
trình độ nghiệp vụ, trình độ quản lý … để có thể bắt kịp thời đại.
- Môi trường văn hoá – xã hội.
Môi trường văn hoá xã hội cũng có những tác động đáng kể đến cho vay tiêu
dùng của ngân hàng. Nó bao gồm các yếu tố như: tình hình trật tự xã hội, trình độ dân
trí, lối sống, thói quen sử dụng, bản sắc dân tộc (thể hiện qua cỏc nột tính cách tiêu
21
Đề án môn học
biểu của người dân như tính cần cù, trung thực, ham lao động, tằn tiện hay thích
hưởng thụ ….). Những yếu tố trên có ảnh hưởng rất lớn tới hành vi tiêu dùng và nhu
cầu sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Vấn đề tâm lý của người dân cũng ảnh hưởng rất lớn tới hành vi nhu cầu của
người tiêu dùng tới sản phẩm cuả ngân hàng. Khi khách hàng tin tưởng vào một ngân
hàng, họ sẽ tiếp tục sử dụng sản phẩm của ngân hàng đó. Ngoài ra, họ còn giới thiệu
cho người thân, bạn bè họ về ngân hàng cũng như các sản phẩm mà ngân hàng cung
cấp. Đây là một phản ứng dây truyền, ngân hàng cần quan tâm nếu muốn mở rộng thị
phần của mình.
Việc tìm hiểu các yếu tố văn hoá – xã hội không những để xác định rừ cỏc tác
động của chúng tới hành vi tiêu dùng cua khách hàng từ đó giúp ngân hàng có thể xây
dựng các chính sách, chiến lược phát triển cho phù hợp với từng khu vực thi trưũng.
- Môi trường pháp lý.
Tất cả các hoạt động trong xã hội đều chịu sự chi phối của một hệ thống luật
pháp. Đặc biệt, lĩnh vực ngân hàng chịu sự kiểm soát chặt chẽ của hệ thống luật pháp
và các cơ quan của Chính phủ. Môi trường pháp lý sẽ tạo ra cho ngân hàng những cơ
hội và không ít những thách thức như việc cho phép thành lập các ngân hàng 100%
vốn nước ngoài sẽ đặt ngân hàng trong nước vào một tình thế canh tranh gay gắt. Nếu
hoạt động của ngân hàng nước ngoài được nới lỏng thì khi đú cỏc ngân hàng nước

ngoài có thể tung các sản phẩm bằng nội tệ với chi phí rẻ hơn nhiều so với các sản
phẩm cùng loại của ngân hàng trong nước.
Các nhà kinh doanh ngân hàng cần phải quan tâm tới những văn bản pháp luật
khác như Luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật thuế… thường xuyên
nắm bắt những thay đổi để có sự điều chỉnh hoạt động kinh doanh kịp thời.
Các chính sách của nhà nước như khuyến khích đầu tư trong nước, thu hút đầu
tư nước ngoài, chính sách cho vay ưu đãi đối với người nghèo, vùng sau vùng xa, các
chính sách về lương cán bộ ….nhằm mục tiêu phát triển kinh tế, giảm thất nghiệp, tăng
thu nhập cho người dân. Đõy chớnh là một tiền đề thuõn lợi để phát triển các hoạt
động ngân hàng trong đó có cho vay tiêu dùng .
Những văn bản pháp luật, những quy định rõ ràng, đầy đủ, đồng bộ, sẽ là hành
lang pháp lý vững chắc cho hoạt động tín dụng phát triển. Ngược lại, một môi truờng
22
Đề án môn học
pháp lý kộm,cỏc quy định rườm rà, phức tạp sẽ cản trở hoạt động của nghành ngân
hàng, tạo điều kiện cho tiêu cực phát triển.
- Môi trường công nghệ và hệ thống thông tin.
Công nghệ hiện đại sẽ giúp cho ngân hàng tiết kiệm được chi phí, quy trình
nghiệp vụ được tiến hành một cách nhanh chóng (sử dụng trong việc tớnh lói, quản lý
hợp đồng …) tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng từ đó giúp nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh.
Trước khi có quyết định cấp tín dụng, các cán bộ tín dụng cần phải thực hiện
việc thẩm định khách hàng về mặt tư cách pháp lý, nghề nghiệp, nguồn thu
nhập….Những thông tin cung cấp cho hoạt động tín dụng của ngân hàng rất phong
phú, đa dạng vế số lượng cũng như chất lượng và từ nhiều nguồn khác nhau. Mặt
khác, hệ thống thông tin cũn giỳp ngân hàng quảng bá, đưa cá sản phẩm dịch vụ tới
người dân, giúp họ biết, hiểu và sử dụng chúng.
- Khách hàng vay vốn.
Khách hàng vay vốn của ngân hàng bao gồm những cá nhân, tổ chức có nhu
cầu về các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Các khách hàng khác nhau có nhu cầu về

sản phẩm dịch vụ khác nhau. Đối với sản phẩm cho vay tiêu dùng các ngân hàng
thường tập trung vào nhóm khách hàng cá nhân, họ thường có nhu cầu mua sắm tiêu
dùng nhiều hơn. Ta xem xét các yếu tố sau:
- Đạo đức của khách hàng :
Được đánh giá trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm của khách hàng. Đây là
yếu tố tiên quyết đến hành vi trả nợ. Năng lực pháp lý là những năng lực được quy
định cụ thể về mặt pháp lý mà người vay cần phải có. Độ tín nhiệm là một yếu tố khó
đong đếm, liên quan đến sự sẵn lòng trả nợ của khách hàng, sự nghiêm túc trong việc
thực hiện các điều khoản trong hợp đồng. Độ tín nhiệm được xây dựng trên cơ sở tính
thật thà, liêm chính của người vay, được phản ánh khỏ rừ trong hồ sơ quá khứ của
người đi vay. Một khoản vay được đánh giá là tốt nhưng nhiều khi trong quá trình sử
dụng vốn vay có thể do tư cách, do lòng tham mà người vay sử dụng tiền vay không
mục đích, không có thiện trong việc trả nợ cho ngân hàng, dẫn đến những tổn thất cho
ngân hàng.
- Khả năng tài chính của người vay:
23
Đề án môn học
Đây là nhân tố có ảnh hưởng rất quan trọng đến hoạt động của ngân hàng nói
chung và hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng nói riêng. Các cán bộ tín dụng
rất quan tâm đến nguồn trả nợ của người vay, nó giỳp cỏc cán bộ tín dụng đưa ra mức
cho vay đối với khách hàng (bên cạnh tài sản đảm bảo). Phần lớn các khoản vay tiêu
dùng có quy định nguồn trả nợ là từ thu nhập thường xuyên của khách hàng.
Nếukhỏch hàng có thu nhập cao và ổn định, việc thanh toán nợ ngân hàng sẽ ít ảnh
hưởng đến các chi tiêu khác của người vay và gia đình họ.
- Đối thủ cạnh tranh.
Xu hướng tự do hoá trong những năm gần đây đã đặt ngân hàng trước nguy cơ
cạnh tranh rất cao, với sự tham gia của các định chế tài chính khỏc trờn một số lĩnh
vực của ngân hàng đặc biệt là việc tham gia của các ngân hàng nước ngoài. Để có thể
đứng vững, các ngân hàng thương mại cần phải tăng cường năng lực cạnh tranh của
mình, tiến hành nghiên cứu kỹ các đối thủ cạnh tranh cũng như khách hàng, từ đó có

chiến lược cụ thể cho mình.
1.3.2. Các nhân tố chủ quan.
Ngoài các nhân tố khách quan kể trên thỡ cỏc nhân tố chủ quan trong nụị tại
của ngân hàng cũng là những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng của
ngân hàng như vốn tự có, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, chiến lược, quy
trỡnh….
- Vốn tự có và khả năng huy động vốn.
Để bắt đầu hoạt động các ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định, đây là
loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị nhà cửa cho
ngân hàng. Có thể nói đó là tài sản đảm bảo lòng tin đối với khách hàng , đồng thời nó
cũng là cơ sở cho ngân hàng mở rộng các hoạt động của mình trong đó có hoạt động
cho vay tiêu dùng.
Quy mô vốn tự có lớn là một trong các điểm mạnh, đẩy mạnh sự phát triển của
ngân hàng nói chung và tăng cướng khă năng huy động vốn trên thị trường nói riêng.
Vốn thấp sẽ hạn chế các ngân hàng tiếp cận với các khách hàng có nhu cầu vay vốn
lớn, đồng thời nó cũng làm hạn chế các ngân hàng mở rộng các dịch vụ và quy mô
hoạt động. Từ đó, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô cho cho vay tiêu dùng của các
ngân hàng thương mại.
24
Đề án môn học
Hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới
chất lượng hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng có thể huy động từ : nguồn tỡờn gửi,
nguồn đi vay, nguồn vốn khỏc… Việc quản lý quy mô và cơ cấu nguồn vốn huy động
của các ngân hàng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động của các ngân
hàng, là điều kiện để ngân hàng mở rộng qui mô hoạt động, nâng cao tính thanh khoản
và tính ổn định của nguồn vốn. Đỡờu đú đồng nghĩa với việc nguồn vốn huy động
được càng nhiều sẽ góp phần mở rộng hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động
cho vay tiêu dùng.
- Đội ngũ nguồn nhân lực.
Một trong những chính sách để nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng là

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công nhân viên.
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng, đánh giá
không tốt, cố tình làm sai… là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng, trong
đó có rủi ro của hoạt động cho vay tiêu dùng. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với
nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tố họ phải am
hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng
sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay Như vậy họ
cần phải được đào tạo kỹ lưỡng, liên tục và toàn diện. Sống trong mụi trưũng tiền bạc
nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho
khách hàng rút ruột ngân hàng. Như vậy chất lượng nhân viên ngân hàng bao gồm
trình độ và đạo đức nghề nghiệp là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
- Công nghệ ngân hàng.
Một công nghệ ngân hàng hiện đại là nền tảng hoạt động của sản phẩm dịch vụ
ngân hàng. Đó cũng là biện pháp để ngân hàng tránh bị tụt hậu, kém khả năng cạnh
tranh trong môi trường kinh doanh.
Các ngân hàng luôn phải nắm bắt sự thay đổi của môi trường kỹ thuật, tạo điều
kiện áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào kinh doanh đối với khách hàng
và cho khách hàng.
Việc nâng cao chất lượng và sự hiện đại hoá của công nghệ sẽ là điếu kiên tốt
để nâng cao chất lưọng hoạt động của ngân hàng.
25

×