Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.81 KB, 81 trang )











LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập
khẩu Tổng hợp I





Lời nói đầu

Hiện nay Vệt Nam đang ở trong giai đoạn hội nhập. Nói đến ngoại thương của
Việt Nam chúng ta không thể không nói đến những bước thăng trầm của nó trước và
sau khi chuyển đổi nền kinh tế. Trước kia ảnh hưởng bởi nền kinh tế tập chung, ngoại
thương Việt Nam mang tính chất phiến diện nghèo nàn. Chúng ta chủ yếu quan hệ với
Liên Xô và các nước đông Âu trên cơ sở không hoàn lại. Từ khi chuyển đổi nền kinh tế
sang cơ chế thị trường với quan điểm: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước,
không phân biệt chế độ chính trị trên cở các bên cùng có lợi thì nền ngoại thương Việt
Nam đã có sự thay đổi mạnh mẽ, hiện nay Việt Nam có quan hệ buôn bán với hầu hết
các quốc gia trên thế giới


Cùng với xu thế hội nhập, xuất khẩu đã trở thành vấn đề sống còn của nhiều nền
kinh tế thế giới. Việt Nam từ khi mở cửa nền kinh tế cũng đã xác định xuất khẩu là vấn
đề then chốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước giai đoạn 2001-2010 đang đặt ra cho
hoạt động xuất nhập khẩu những yêu cầu mới, đó là ngày càng phải chú trọng tới việc
nâng cao chất lượng cũng như hiệu quả cuả hoạt động xuất khẩu
Là một sinh viên của trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, tiếp thu những kiến thức
hữu ích về lĩnh vực kinh tế đối ngoại nói chung cũng như hoạt động xuất nhập khẩu nói
riêng, được nhà trường tạo điều kiện thực tập tại Công ty XNK Tổng hợp I – một công
ty kinh doanh hiệu quả và có uy tín trên thị trường. Qua quá trình thực tập tại công ty,
em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
tại công ty XNK Tổng hợp I” để nghiên cứu trong luận văn của mình, với mong muốn
tìm hiểu sâu hơn về lĩnh vực xuất khẩu và hiệu quả của nó ở Việt Nam thông qua thực
tiễn tại Công ty XNK Tổng hợp I. Nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lí luận chung về hiệu quả xuất khẩu và sự cần thiết phải nâng cao
hiệu quả xuất khẩu.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả xuất khẩu tại công ty XNK Tổng hợp I
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu của công ty XNK
Tổng hợp I trong thời gian tới.


Chương 1
cơ sở lí luận về hiệu quả kinh Doanh xuất khẩu và sự cần thiết phải nâng cao hiệu
quả kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp

1.1. Tổng quan về hiệu quả kinh doanh
1.1.1. Khái niệm và bản chất hiệu quả kinh doanh
1.1.1.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh
* Khái niệm kinh doanh
Để hiểu khái niệm hiệu quả kinh doanh trước hết ta xem xét khái niệm kinh

doanh. Đây là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho kinh doanh là
việc dùng công sức và tiền của để tổ chức các hoạt động nhằm mục đích kiếm lời trên
thị trường. Có người cho kinh doanh là việc bỏ ra một số vốn ban đầu vào hoạt động
trên thị trường để thu lại lượng vốn lớn hơn sau một khoảng thời gian nào đấy.
Luật kinh doanh của Việt Nam có khái niệm "kinh doanh là việc thực hiện một số
hoặc tất cả các công đoạn các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc thực hiện các dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Như vậy, nếu loại bỏ các phần khác nhau nói về phương diện, phương thức, kết
quả cụ thể của hoạt động kinh doanh thì có thể hiểu kinh doanh là các hoạt động nhằm
mục đích sinh lời của các chủ thể kinh doanh trên thị trường.
* Khái niệm hiệu quả kinh doanh
Nếu xét về kết quả cụ thể của hoạt động kinh doanh ta có thuật ngữ hiệu quả kinh
doanh. Trong quá khứ cũng như hiện tại còn có nhiều quan niệm khác nhau về thuật
ngữ này. Tuy nhiên, ta có thể chia các quan niệm này thành các nhóm cơ bản sau
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: hiệu quả kinh doanh là kết quả thu được trong hoạt
động kinh doanh, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá
Theo quan điểm này thì hiệu quả kinh doanh cũng chính là kết quả kinh doanh,
quan điểm này chỉ đề cập đến doanh thu mà không đề cập đến chi phí kinh doanh, hai
hoạt động kinh doanh cùng đem lại một kết quả, doanh thu thì chúng có cùng hiệu quả
kinh doanh dù chúng có hai mức chi phí khác nhau, đây là hạn chế của quan điểm này
- Quan điểm thứ hai cho rằng: hiệu quả kinh doanh là một quan hệ tỉ lệ giữa phần
tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí. Quan điểm này đã nói lên quan hệ

so sánh một cách tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả
đó, nhưng quan điểm này cũng có hạn chế là lại chỉ xét tới phần kết quả và chi phí bổ
sung.
- Quan điểm thứ ba cho rằng: hiệu quả kinh doanh là một đại lượng so sánh giữa
kết quả thu được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Quan điểm này đã phản ánh
được mối liên hợp bản chất của hiệu quả kinh doanh, vì nó gắn được kết quả với các chi
phí. Tuy nhiên, kết quả và chi phí đều luôn luôn vận động, nên quan điểm này chưa biểu

hiện được tương quan về lượng và chất giữa kết quả và chi phí
- Quan điểm thứ tư cho rằng: hiệu quả kinh doanh phải thể hiện được mối quan hệ
giữa sự vận động của kết quả với sự vận động của chi phí tạo ra kết quả đó, đồng thời
phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất.
1.1.1.2. Bản chất của hiệu quả kinh doanh
Từ các quan điểm trên ta có thể thấy được bản chất của hiệu quả kinh doanh. Hiệu
quả kinh doanh bản chất là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn
lực sản xuất, trình độ tổ chức và quản lý của doanh nghiệp để thực hiện ở mức cao nhất
các mục tiêu kinh tế - xã hội và chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh phải được xem
xét ở cả hai mặt định tính và định lượng.
Về mặt định tính, mức độ hiệu quả kinh doanh là những lỗ lực của doanh nghiệp
và phản ánh trình độ quản lý của doanh nghiệp đồng thời gắn những lỗ lực đó với việc
đáp ứng các mục tiêu và yêu cầu của doanh nghiệp và của xã hội.
Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện tương quan so sánh giữa kết quả
thu được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh chỉ có được khi
kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra, mức chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng
cao và ngược lại. Cả hai mặt định tính và định lượng của hiệu quả kinh doanh có quan
hệ chặt chẽ với nhau không tách rời nhau.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà các quốc gia trên thế giới luôn đề cao vấn đề an
toàn cho người tiêu dùng, an toàn vệ sinh, môi trường vấn đề lao động và trách nhiệm
xã hội thì hiệu quả kinh doanh từ khi còn gắn với hiệu quả chính trị - xã hội.
1.1.2. Phân loại hiệu quả kinh doanh

Trong thực tế có nhiều loại hiệu quả kinh doanh khác nhau để tiện cho việc quản lý
và nâng cao hiệu quả kinh doanh ta thường phân loại hiệu quả kinh doanh theo các tiêu
thức khác nhau.
* Căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả kinh doanh thành hiệu quả tuyệt đối và
hiệu quả tương đối
Đây là hai hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa kết quả và chi phí.
Hiệu quả tuyệt đối được tính bằng công thức






nhuËn
lîi phÝchi -qu¶ kÕt H
Hiệu quả tương đối phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh
nghiệp.
phÝ
Chi
qu¶KÕt
H
1


qu¶KÕt
phÝ
Chi
H
2


* Nếu căn cứ vào phạm vi tính toán hiệu quả có hiệu quả kinh doanh tổng hợp và
hiệu quả kinh doanh bộ phận
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn doanh
nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả tính riêng cho từng bộ phận của doanh
nghiệp hoặc từng yếu tố sản xuất.
* Căn cứ vào khía cạnh khác nhau của hiệu quả có hiệu quả tài chính và hiệu quả

chính trị - xã hội.
Hiệu quả tài chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt kinh tế tài
chính được biểu hiện qua các chỉ tiêu thu chi trực tiếp của doanh nghiệp.
Hiệu quả chính trị - xã hội là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp về mặt chính
trị - xã hội - môi trường.
* Ngoài ra nếu căn cứ vào thời gian mang lại hiệu quả có hiệu quả trước mắt và
hiệu quả lâu dài, căn cứ vào đối tượng xem xét có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián
tiếp.
Việc phân loại hiệu quả theo các căn cứ như trên chỉ có tính chất tương đối, một
chỉ tiêu có thể vừa là hiệu quả tuyệt đối vừa là hiệu quả tài chính, vừa là hiệu quả lâu

dài do đó tuỳ thuộc vào mục đích và phạm vi nghiên cứu mà người ta có thể phân chia
hiệu quả kinh doanh theo các tiêu thức khác nhau.
1.1.3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh
Có rất nhiều các chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh để đánh giá hiệu quả kinh doanh
của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường, người ta sử dụng một hệ thống các chỉ
tiêu để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ thống chỉ tiêu này cho
chúng ta biết số kết quả về mặt lượng của phạm trù hiệu quả kinh tế, hiệu quả đạt được
cao hay thấp sau mỗi kỳ kinh doanh.
1.1.3.1.Phân loại các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp được phân thành ba loại.
- Một là các chỉ tiêu dùng để tính toán hiệu quả kinh doanh, các chỉ tiêu này chỉ
dùng để tính toán hiệu quả kinh doanh chứ bản thân nó không phản ánh đầy đủ hiệu quả
kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này bao gồm: Giá trị sản lượng hàng
hoá, giá thành, doanh thu tiêu thụ, vốn đầu tư
- Hai là các chỉ tiêu sử dụng để phản ánh hiệu quả kinh doanh. Chỉ tiêu thuộc loại
này phản ánh trực tiếp hiệu quả kinh doanh thông qua quan hệ đạt được và các chi phí
bỏ ra để đạt được kết quả đó. Các chỉ tiêu này bao gồm năng suất lao động, thời hạn thu

hồi vốn đầu tư, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận
- Ba là các chỉ tiêu sử dụng để so sánh hiệu quả kinh doanh . Các chỉ tiêu này dùng
để so sánh hiệu quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp, hay khi một doanh nghiệp có
nhiều phương án kinh doanh khác nhau và lựa chọn một trong số các phương án đó.
1.1.3.2. Hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận,
tỷ suất lợi nhuận, mức vốn hao phí cho một đơn vị sản phẩm, thời hạn thu hồi vốn đầu
tư, hệ số sử dụng vốn, năng suất lao động,
+ Lợi nhuận: Chỉ tiêu lợi nhuận được tính theo công thức sau:
P= D - (Z + Th + TT)
Trong công thức trên
P: Lợi nhuận của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh

D: Doanh thu của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
Z: Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh
TT: Các tổn thất sau mỗi kỳ kinh doanh
Trong cơ chế thị trường lợi nhuận vừa được coi là nhân tố để tính toán hiệu quả
kinh tế vừa được coi là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của doanh nghiệp.
+ Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận được tính theo hai cách:



DT
P
'P
1





vsx
p
p'
2

P'
1
cho biết một đồng doanh thu thì tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận
P'
2
Cho biết một đồng vốn sản xuất (chi phí) thì tạo được bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Trong cơ chế thị trường thì tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu quan trọng, nó dùng để
so sánh khả năng sinh lời giữa các doanh nghiệp khác nhau, hay giữa các ngành khác
nhau.
+ Mức vốn hao phí cho một đơn vị sản phẩm.
Chỉ tiêu này được tính theo công thức:
S
v
=
Q
V

Trong công thức trên:
S
v
: Suất hao phí vốn
V: Tổng vốn
Q: Sản lượng (tính theo sản phẩm)

Chỉ tiêu này cho biết được hiệu quả sử dụng các loại vốn của doanh nghiệp. Lượng
vốn sử dụng trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu trên còn được cụ thể hoá cho từng loại vốn như sau
Q
VDT

S
vdt


Q
VCD

S
vcd

Q
VLD

S
vld

S
vdt
,
S
vcd
,
S
vld

: suất phí vốn đầu tư, vốn cố định, vốn lưu động
Các chỉ tiêu này cho thấy một đơn vị vốn sẽ tạo ra được bao nhiêu sản phẩm hàng
hoá. Các suất hao phí càng thấp thì hiệu quả càng cao và ngược lại.
+ Thời hạn thu hồi vốn đầu tư
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư phản ánh khoảng thời gian mà vốn đầu tư dần dần
được thu hồi lại sau mỗi kì kinh doanh
Thời hạn thu hồi vốn đầu tư đựơc xác định bằng công thức
P
VDT

T
v

VDT: tổng số vốn đầu tư cho kì kinh doanh đó
P: lợi nhuận thu được sau mỗi kì kinh doanh
T
v
mà càng ngắn thì hiệu quả dụng vố đầu tư càng cao và ngược lại
+ Hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Đây là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư



Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời của một đồng vốn
+ Cùng với chỉ tiêu E người ta còn sử dụng các chỉ tiêu hệ số hiệu quả sử dụng vốn cố
định, vốn lưu động, và được tính bằng công thức
VLD
P

E

vld

VLD
P

E
vcd

+ Năng suất lao động (W)

L
Q
W 
Q khối lượng hàng hoá tạo ra trong kì
VDT
P
T
v
1
E 

L: số lượng lao động bình quân kì kinh doanh
Chỉ tiêu cho biết khối lượng sản phẩm hàng hoá được tạo ra trên một đầu người.
Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh doanh càng lớn
+ Suất hao phí lao động sống
Chỉ tiêu này là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu năng suất lao động
Q
L
W
S

ld

1

Chỉ tiêu cho biết lượng hao phí lao động cho việc tạo ra một đơn vị sản phẩm. Chỉ
tiêu này càng thấp chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng lao động càng có hiệu quả.
+ Ngoài các chỉ tiêu về năng suất lao động tính theo sản phẩm người ta còn tính các chỉ
tiêu sau
Doanh thu bình quân một lao động
L
DT

Mức sinh lời của một lao động
L
P

Trên đây chỉ là một số chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, ngoài các chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng nhiều các chỉ tiêu khác tuỳ thuộc
vào phạm vi và mục đích nghiên cứu
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp và
nhất là đối với một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thì hiệu quả kinh doanh của một
doanh nghiệp càng bị chi phối bởi nhiều nhân tố. Tuy nhiên ta có thể phân loại các nhân
tố này làm hai nhóm đó là nhóm các nhân tố bên trong doanh nghiệp và nhóm các nhân
tố bên ngoài doanh nghiệp.
1.1.4.1. Nhóm các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
Nhóm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp bao gồm các nhân tố thuộc môi trường
kinh doanh quốc gia và các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh quốc tế
* Nhân tố môi trường kinh doanh quốc gia
Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng tới hiệu quả kinh

doanh của doanh nghiệp bao gồm môi trường văn hoá chính trị, luật pháp, kinh tế và
cạnh tranh

- Môi trường văn hoá của quốc gia phản ánh thẩm mĩ, giá trị và thái độ, phong tục
tập quán, cấu trúc xã hội, tôn giáo, giao tiếp cá nhân, giáo dục…sự đa dạng về văn hoá
có thể tạo điều kiện cho một số sản phẩm này tăng doanh thu nhưng có thể lại làm cho
một số sản phẩm khác phải tăng chi phí để thích nghi hoá sản phẩm cho phù hợp với thị
hiếu địa phương. Do đó việc hiểu biết về nền văn hoá quốc gia sẽ giúp cho nhà quản trị
điều hành có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất và bán hàng của mình
- Những nhân tố chính trị và luật pháp là những vấn đề liên quan đến vai trò quan
trọng của chính phủ và luật pháp đối với kinh doanh. Các yếu tố chính trị và luật pháp
bao gồm sự ổn định của chính phủ, mức độ tham nhũng trong hệ thống chính trị, và các
tiến trình chính trị có ảnh hưởng tới các chính sách kinh tế.
Các yếu tố pháp luật bao gồm các đạo luật điều chỉnh việc trả lương tối thiểu, an
toàn lao động cho công nhân, bảo vệ môi trường và người tiêu dùng, và những gì được
quy định là hành vi cạnh tranh hợp pháp hay bất hợp pháp.
Hệ thống luật pháp của một quốc gia nào đầy đủ, rõ ràng nhất quán và mở rộng sẽ
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nhiệp, đồng thời tiết kiệm
được chi phí do luật pháp không rõ ràng, không nhất quán gây ra. Sự ổn định hay bất ổn
định của hệ thống chính trị cũng ảnh hưởng đến việc tăng kết quả kinh doanh hay giảm
chi phí kinh doanh.
- Những yếu tố kinh tế bao gồm các biến số về kinh tế và tài chính như lãi suất và
thuế suất, cơ cấu tiêu dùng, năng suất và mức sản lượng. Các yếu tố đó còn bao gồm các
chỉ số về hạ tầng cơ sở như truyền thông, mạng lưới phân phối … và mức độ sẵn có và
mức phí tổn về năng lượng.
Các yếu tố kinh tế và sự thay đổi của nó đều có tác động trực tiếp đến yếu tố thị
trường đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Do đó nó ảnh hưởng đến việc tăng giảm các
chỉ tiêu kết quả kinh doanh hoặc tăng giảm một số loại chi phí kinh doanh. Sự biến
động chung có thể là cùng chiều giữa các yếu tố trên nhưng với tốc độ khác nhau cũng
tạo ra sự biến động không đều của các chỉ tiêu kết quả và chi phí do đó cũng tác động

tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Những yếu tố cạnh tranh bao gồm những yếu tố như số lượng các đối thủ cạnh
tranh của công ty và chiến lược cạnh tranh của chúng, cơ cấu giá thành và chất lượng
sản phẩm. Ngoài ra còn tính đến việc cạnh tranh có ảnh hưởng như thế nào đến giá

thành và mức độ sẵn có của các nguồn lực như lao động, vốn tài chính, nguyên liệu thô.
Cuối cùng các yếu tố cạnh tranh còn liên quan đến tính cách, hành vi cư sử và sở thích
của người tiêu dùng đối với các sản phẩm của công ty và các đối thủ cạnh tranh của nó,
như vậy các yếu tố cạnh tranh có ảnh hưởng trực tiếp cũng như gián tiếp tới chi phí hay
kết quả của doanh nghiệp, có nghĩa là sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp.
Bốn nhóm yếu tố của môi trường kinh doanh quốc gia trên đây ảnh hưởng tới cách
thức hoạt động của tất cả các công ty kinh doanh trong bất kì môi trường kinh doanh
quốc gia nào. Các nhà sản xuất và các doanh nghiệp vừa và nhỏ không tham gia vào các
hoạt động kinh doanh quốc tế cũng bị ảnh hưởng.
Các công ty nội địa quan tâm chủ yếu tới việc các yếu tố bên ngoài trong một môi
trường kinh doanh quốc gia ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động của công ty. Ngược
lại các công ty kinh doanh quốc tế phải quan tâm đến các yếu tố bên ngoài của tất cả
các yếu tố bên ngoài của tất cả các môi trường kinh doanh quốc gia có liên quan đến
hoạt động của công ty, đó là môi trường kinh doanh quốc tế.
* Môi trường kinh doanh quốc tế.
Môi trường kinh doanh quốc tế liên kết các môi trường kinh doanh quốc gia trên
thế giới với nhau, và trở thành đường dẫn theo đó các yếu tố bên ngoài của một nước
ảnh hưởng tới các công ty ở các quốc gia khác nhau. Môi trường kinh doanh quốc tế và
sự biến động của nó cũng tác động không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, nếu như các biến động trong kinh doanh quốc tế thuận lợi sẽ mở ra nhiều thời
cơ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó có thể làm cho doanh thu tăng do
nhu cầu về sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường tăng lên và ngược lại.
Giá cả của các sản phẩm trên thị trường thế giới biến động theo hướng tăng lên hay
giảm đi tác động trực tiếp đến giá cả các yếu tố đầu vào và đầu ra của doanh nghiệp. Sự

biến động về tỷ giá và lãi suất giữa các đồng tiền đặc biệt là giữa các đồng tiền mạnh
cũng ảnh hưởng tới chi phí vốn, đến giá cả các yếu tố đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp,
và do đó ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Trên đây là các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp, ngoài ra các yếu tố bên trong
doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.4.2. Các yếu tố bên trong doanh nghiệp .

Các nhân tố bên trong doanh nghiệp ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp bao gồm trình độ công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất và trình độ quản lí của
doanh nghiệp
* Trình độ công nghệ và sự đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Công nghệ mà doanh nghiệp sử dụng có tác động rất lớn đến sản phẩm mà doanh
nghiệp sản xuất ra, cũng như tác động đến chi phí và giá thành của sản phẩm. Việc
doanh nghiệp đổi mới và nâng cao trình độ công ghệ của doanh nghiệp cũng không
ngoài mục đích tăng doanh thu do tăng sản lượng hay do từ các sản phẩm có chất lượng
cao hơn và đáp ứng được nhu cầu của thị trường, do tăng giá bán của các sản phẩm có
chất lượng tốt hơn, mẫu mã kiểu cách đẹp hơn; do giảm được chi phí do giảm tiêu hao
nguyên liệu, giảm phế phẩm, tăng chính phẩm.
Hiện nay dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ đang phát triển như vũ
bão, có vai trò ngày càng lớn mang tính chất quyết định tới việc năng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả và đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta, cùng với xu thế
chung đó các doanh nghiệp đã và đang tìm mọi biện pháp để nâng cao khả năng đầu tư,
ngày càng cải tiến và ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, cải thiện và nâng cao
trình độ kĩ thuật cho mình
* Trình độ tổ chức sản xuất của doanh nghiệp
Trình độ tổ chức sản xuất của doanh nghiệp được thể hiện ở nhiều mặt như tổ
chức cung cấp nguyên vật liệu, tổ chức lao động trong sản xuất.
Nguyên liệu( đối với các doanh nghiệp sản xuất ) là một yếu tố thiết yếu để tiến
hành sản xuất kinh doanh do đó việc cung ứng nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp

Trình độ tổ chức sản xuất của doanh nghiệp tốt, hợp lí sẽ tạo điều kiện giảm chi
phí sản xuất do giảm được thời gian ngừng sản xuất vì nhiều lí do khác nhau, làm tăng
năng suất lao động. Việc doanh nghiệp thường xuyên cải tiến tổ chức sản xuất để việc
sản xuất ngày càng hợp lí cho phép giảm hao hụt nguyên vật liệu, giảm phế phẩm
* Trình độ quản lí doanh nghiệp
Chi phí quản lí doanh nghiệp chiếm tỷ lệ % khá lớn trong tổng chi phí của doanh
nghiệp, trình độ quản lí của doanh nghiệp thể hiện ở việc xây dựng được một cơ cấu tổ
chức hợp lí và chi phí quản lí thấp. Nếu trình độ quản lí của doanh nghiệp tốt sẽ tạo

dựng lên dược bộ máy quản lí gọn nhẹ, có hiệu lực, điều này góp phần giảm chi phí
quản lí trong giá thành sản phẩm
Trình độ quản lí còn thể hiện ở việc doanh nghiệp biết sử dụng các phương pháp
và công cụ quản lí để kích thích khả năng sáng tạo của người lao động, cống hiến nhiều
hơn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần làm tăng yếu tố kết quả và
giảm chi phí kinh doanh một cách hợp lí, tức là nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp
Nói tóm lại có rất nhiều nhân tố tác động tới hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Việc phân tích tác động của các nhân tố tới hiệu quả kinh doanh của các doanh
nghiệp một cách thường xuyên để tìm ra các biện pháp phát huy các nhân tố tích cực và
hạn chế các nhân tố tiêu cực là vấn đề cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp
1.1.5. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thì tuỳ vào từng điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của từng doanh nghiệp mà mỗi doanh nghiệp có các biện pháp khác
nhau, mỗi doanh nghiệp sẽ có con đường riêng để nâng cao hiệu quả kinh doanh của
mình dựa vào năng lực của mình và điều kiện thị trường cho phép. Tuy nhiên để nâng
cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có các phương hướng chung sau
1.1.5.1 Phương hướng cơ bản để nâng cao hiệu quả kinh doanh
Như ta đã biết hiệu quả kinh doanh về mặt lượng biểu hiện tương quan so sánh
giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Do đó để tăng hiệu quả

kinh doanh ta có ba phương hướng cơ bản sau
Thứ nhất là, tăng doanh thu: giả sử với một mức chi phí không đổi mà doanh thu
được nâng cao, điều này sẽ tương đương với hiệu quả kinh doanh được nâng cao.
Thứ hai là, giảm chi phí: phương hướng này nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng
cách giảm bớt các chi phí một cách hợp lí
Thứ ba là, làm cho tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí. Theo phương
hướng này doanh nghiệp sẽ tác động vào cả kết quả và chi phí nhưng làm cho chúng có
sự biến động với tốc độ khác nhau. Đây là phương hướng trên thực tế được các doanh
nghiệp sử dụng một cách phổ biến
1.1.5.2. Các biện pháp cụ thể để thực hiện các phương hướng trên

Tăng doanh thu: muốn tăng doanh thu thì các doanh nghiệp phải tìm biện pháp để
tiêu thụ được nhiều hàng hoá hoặc là bán hàng ra với giá cao hơn. Để tiêu thụ được
nhiều hàng hoá các doanh nghiệp phải thực hiện một số biện pháp cụ thể như:
- Sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn trước
- Tổ chức tốt công tác marketing để có nhiều khách hàng biết đến và chấp nhận sản
phẩm của doanh nghiệp
- Sản xuất ra các sản phẩm có mẫu mã đẹp và đa dạng hấp dẫn người tiêu dùng
- Một biện pháp nữa để tiêu thụ được nhiều hàng hoá hơn đó là mở rộng đoạn thị
trường mục tiêu của doanh nghiệp
Giảm chi phí: chi phí phát sinh trong nhiều giai đoạn và chi phí cũng gồm nhiều
loại do đó muốn giảm chi phí doanh nghiệp phải thực hiện tiết kiệm ở tất cả các khâu,
các giai đoạn. Một số biện pháp cụ thể như:
- Chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết cho quá trình kinh doanh
- Tổ chức tốt quá trình sản xuất
Hai biện pháp trên sẽ góp phần đảm bảo cho việc kinh doanh đựơc diễn ra liên tục
và đảm bảo kế hoạch
- Ngoài ra còn có các biện pháp khác như nâng cao công tác tổ chức quản lí và
thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh doanh trong doanh nghiệp nhằm hạn chế thất
thoát…

Trên đây chỉ là một số biện pháp cơ bản nhằm thực hiện hai phương hướng cơ bản
là tăng doanh thu và giảm chi phí. Tuy nhiên, kinh doanh trong điều kiện sản xuất lớn
khó có thể giảm tổng chi phí vì sản lượng tăng quá lớn thì chi phí không thể giảm đi
được. Trong trường hợp này doanh nghiệp phải tìm cách để cho tốc độ tăng doanh thu
lớn hơn tốc độ tăng của chi phí và làm cho mối quan hệ giữa doanh thu và chi phí thay
đổi theo chiều hướng có lợi. Từ những biện pháp trên đây, các doanh nghiệp còn phải
tìm ra các biện pháp cụ thể hơn để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chẳng hạn
doanh nghiệp cần phải cân nhắc xem trong điều kiện hiện tại của mình thì yếu tố nào là
yếu tố chưa được sử dụng tiết kiệm để từ đó đề ra các biện pháp cụ thể để sử dụng tiết
kiệm hơn yếu tố đó.
1.2. Xuất khẩu và hiệu quả xuất khẩu
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu

1.2.1.1. Khái niệm xuất khẩu
Điều quan trọng đối với một công ty kinh doanh trên thị trường quốc tế là phải lựa
chọn được cách thức thâm nhập vào từng thị trường nước ngoài riêng biệt. Những
phương thức chủ yếu để thâm nhập một thị trường nước ngoài bao gồm:
- Hình thức thâm nhập thị trường thông qua xuất khẩu và buôn bán đối lưu:
- Hình thức thâm nhập thông qua hợp đồng như hợp đồng sử dụng giấy phép, hợp
đồng kinh tiêu, hợp đồng quản lí, dự án chìa khoá trao tay
- Hình thức thâm nhập thông qua đầu tư như chi nhánh sở hữu toàn bộ, liên doanh,
liên minh chiến lược…
Tuỳ thuộc vào chiến lược và điều kiện của từng công ty mà công ty lựa chọn cho
mình hình thức thâm nhập thị trường một cách phù hợp.
Trong các hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài nói trên thì xuất khẩu hàng
hoá là hình thức đầu tiên của quá trình thâm nhập thị trường quốc tế, thông qua hoạt
động tiêu thụ những hàng hoá được sản xuất ở trong nước ra thị trường nước ngoài.
Phần lớn các công ty bắt đầu việc mở rộng thị trường với tư cách là những nhà xuất
khẩu và chỉ sau đó mới chuyển từ phương thức này sang phương thức khác để phục vụ
thị trường nước ngoài.

Như vậy xuất khẩu là một hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài. Giáo trình
Kinh Doanh Quốc Tế- ĐHKTQHN định nghĩa “Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá
và dịch vụ từ quốc gia này sang quốc gia khác”. Tuy nhiên ta cũng phải phân biệt hoạt
động xuất khẩu với hình thức hàng hoá được lưu chuyển qua biên giới quốc gia dưới
giác độ phi kinh doanh như làm quà tặng hoặc viện trợ không hoàn lại.
Hiện nay hình thức xuất khẩu được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng phổ biến
do trong giai đoạn mới tham gia vào hoạt dộng thương mại quốc tế, khả năng mở rộng
thị trường nước ngoài bằng con đường khác còn nhiều hạn chế.
1.2.1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu
Hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài bằng hình thức xuất khẩu ra đời từ rất
lâu và cho đến nay nó vẫn là hình thức thâm nhập thị trường nước ngoài phổ biến sau
đây là một số đặc điểm chủ yếu của hình thức này
* Đối tượng xuất khẩu

Khi hình thức xuất khẩu mới ra đời thì đối tượng xuất khẩu chủ yếu là hàng hoá
hữu hình như các sản phẩm tiêu dùng và máy móc thiết bị …. Nhưng cho đến nay thì
đối tượng xuất khẩu không chỉ có hàng hoá hữu hình mà còn bao gồm cả các hoạt động
dịch vụ như vận tải, du lịch….
* Chủ thể tham gia vào hoạt động xuất khẩu
Tuỳ vào từng hình thức xuất khẩu mà các đối tượng tham gia vào hoạt động xuất
khẩu là khác nhau, tuy nhiên dưới giác độ chung ta có thể phân chia chủ thể tham gia
vào hoạt động xuất khẩu làm ba bên đó là nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và nhà nước
Người xuất khẩu là người có hàng hoá, dịch vụ sản xuất ở trong nước và tìm cách
bán ra nước ngoài. Nhà nhập khẩu là người mua hàng hoá của người xuất khẩu với mục
đích là kinh doanh hay tiêu dùng trực tiếp. Chính phủ là chủ thể thứ ba tham gia vào
hoạt động xuất khẩu, chính phủ bao gồm chính phủ của nước xuất khẩu, nước nhập
khẩu. chính phủ có vai trò quan trọng trong việc điều tiết và quản lí các hoạt động xuất
nhập khẩu.
Hiện nay khi nền kinh tế phát triển, ngoài ba chủ thể trên còn có sự tham gia của
các tổ chức tài chính và ngân hàng với chức năng thanh toán, vai trò của các tổ chức

này ngày càng quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Ngoài ra còn có sự tham gia của
các nhà vận tải, bảo hiểm.
* Thanh toán trong xuất khẩu
Một vấn đề quan trọng trong xuất khẩu đó là vấn đề thanh toán. từ khi hình thức
xuất khẩu ra đời cho đến nay thì các phương tiện và hình thức thanh toán ngày càng
phát triển và hoàn thiện.
Ban đầu phương tiện thanh toán chủ yếu trong hoạt động xuất khẩu là tiền mặt.
Sau này tiền mặt ít được dùng thanh toán do sự phát triển của các phương tiện thanh
toán như séc, kì phiếu và hối phiếu.
Phương thức thanh toán ban đầu chủ yếu là phương thức chuyển tiền, ngày nay do
sự phát triển của hệ thống các tổ chức tài chính và ngân hàng thì các phương thức thanh
toán mới cũng ra đời như phương thức nhờ thu, phương thức tín dụng chứng từ (LC).
Đặc biệt phương thức LC hiện nay là phương thức được sử dụng phổ biến nhất do độ an
toàn của nó, đảm bảo lợi ích cho cả nhà xuất khẩu lẫn nhập khẩu.

Ngoài vấn đề thanh toán thì vấn đề vận tải và bảo hiểm cũng là hai vấn đề lớn
trong hoạt động xuất khẩu. Hai vấn đề này cùng với thanh toán ngày càng đóng vai trò
quan trọng và có ảnh hưởng lớn tới xuất khẩu
1.2.1.3 Các hình thức xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu diễn ra dưới hai hình thức là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu
gián tiếp.
* Xuất khẩu trực tiếp
Là hoạt động bán hàng trực tiếp của công ty cho khách hàng của mình ở thị trường
nước ngoài. để thâm nhập thị trường nước ngoài thông qua xuất khẩu trực tiếp các công
ty thường sử dụng hai hình thức chủ yếu là:
Đại diện bán hàng
Đại lí phân phối
* Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng và dịch vụ của công ty ra nước ngoài
thông qua trung gian. Các trung gian chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là:

Đại lí ( agent)
Công ty quản lí xuất khẩu.
Công ty kinh doanh xuất khẩu.
Đại lí vận tải
Đối với hình thức xuất khẩu gián tiếp thì các trung gian mua không chiếm hữu
hàng hoá của công ty mà chỉ trợ giúp công ty bán hàng ra nước ngoài.
1.2.2. Hiệu quả xuất khẩu
Xuất khẩu cũng là một hình thức kinh doanh do đó cũng phải tính tới hiệu quả của
hình thức kinh doanh này
1.2.2.1. Khái niệm hiệu quả xuất khẩu
Hiệu quả xuất khẩu cũng là hiệu quả kinh doanh nói chung, nó cũng biểu hiện sự
tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đối với một
công ty kinh doanh cả nội địa lẫn kinh doanh xuất khẩu thì hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu chỉ là một bộ phận của hiệu quả kinh doanh nói chung của công ty. Còn đối với

công ty chỉ kinh doanh xuất khẩu thì hiệu quả kinh doanh xuất khẩu cũng chính là hiệu
quả kinh doanh chung của công ty
Tóm lại hiệu quả xuất khẩu là một loại hiệu quả kinh doanh đặc thù gắn với hình
thức kinh doanh xuất khẩu
1.2.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xuất khẩu
Những chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh nói chung về cơ bản vẫn áp dụng cho hình
thức kinh doanh xuất khẩu, nhưng ngoài những chỉ tiêu đó người ta còn sử dụng một số
chỉ tiêu đặc thù khác
* Lợi nhuận xuất khẩu
Lợi nhuận xuất khẩu cũng được tính bằng khoản chênh lệch dôi ra giữa tổng doanh
thu và tổng chi phí của hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên khi tính lợi nhuận xuất khẩu
phải tính đến yếu tố bảo toàn vốn kinh doanh, sở dĩ nói đến yếu tố này vì trong điều
kiện lạm phát lớn, giá trị đồng tiền bị mất giá, tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ và đồng Việt
Nam tăng cao, nhiều đơn vị kinh doanh xuất khẩu sau quá trình hoạt động cũng thu
được khoản chênh lệch dôi ra giữa tổng thu nhập và tổng chi phí bằng đồng Việt Nam

song khi quy đổi về giá trị gốc hay ngoại tệ thì lại bị lỗ.
Lợi nhuận của công ty kinh doanh xuất khẩu được tính bằng công thức
Lợi nhuận = doanh thu xuất khẩu – giá thu mua gốc – chi phí lưu thông – thuế
Trong công thức trên thì doanh thu bán hàng xuất khẩu bao gồm: doanh thu của
hoạt động xuất khẩu trực tiếp, doanh thu của xuất khẩu uỷ thác dưới dạng hoa hồng,
doanh thu do chênh lệch giá khi thực hiện tái xuất khẩu
Giá thu mua gốc là giá cả thu mua hàng xuất khẩu để phục vụ xuất khẩu
Thuế bao gồm các loại thuế: thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu …
* Các chỉ tiêu doanh lợi ( tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu )
Để đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh xuất khẩu và có căn cứ để so sánh với
hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của các đơn vị xuất khẩu khác, ngoài mức lợi nhuận
tuyệt đối người ta còn sử dụng các chỉ tiêu doanh lợi bằng cách so sánh mức lãi tuyệt
đối với kết quả kinh doanh xuất khẩu hoặc các yếu tố như vốn, chi phí kinh doanh, chi
phí lưu thông.

Các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu về cơ bản cũng giống như các chỉ tiêu
tỷ suất lợi nhuận kinh doanh nói chung tuy nhiên trong xuất khẩu người ta còn sử dụng
một số chỉ tiêu đặc thù:
+ Tỷ lệ lãi doanh số bán hàng xuất khẩu
DTXK
P
P
'
B

+ Tỷ lệ lãi so với chi phí lưu thông
CPLT
P
P
'

C

* Lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu
Để đánh giá kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu người ta còn sử
dụng hai chỉ tiêu sau, hai chỉ tiêu này đều được coi như những chỉ tiêu đánh giá tốc độ
lưu chuyển hàng hoá
+ Số vòng lưu chuyển hàng hoá trong kì
D
bq
M
V 
M; mức tiêu thụ trong kì
Dbq : dự trữ bình quân trong kì
Số vòng lưu chuyển bình quân trong kì càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao
và ngược lại
+ Thời gian lưu chuyển hàng hoá
T
V
M
T
Dbq
t 


1

T: số ngày trong năm
t: càng ngắn thì hiệu quả kinh doanh càng cao
1.2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
Khi một công ty kinh doanh xuất khẩu, dưới giác độ chung thì nó cũng giống như

bất kì một công ty nào khác, hiệu quả kinh doanh của công ty cũng chịu ảnh hưởng của
các nhân tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp như đã trình bày ở trên.
Nếu xem xét dưới góc độ là chi phí ảnh hưởng như thế nào tới hiệu quả kinh doanh
ta có thể thấy được hiệu quả xuất khẩu chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố sau. Những

nhân tố đó thường ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận xuất khẩu và do đó ảnh hưởng tới
hiệu quả xuất khẩu
* Mức lưu chuyển hàng xuất khẩu
Mức lưu chuyển hàng xuất khẩu có ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Nếu hàng hoá được lưu chuyển với tốc độ cao thì lợi nhuận sẽ tăng và
giảm được chi phí lưu thông hàng hoá
* Cơ cấu hàng hóa kinh doanh xuất khẩu
Mỗi loại hàng hoá kinh doanh xuất khẩu có một mức lợi nhuận riêng phụ thuộc
vào nhiều yếu tố kinh doanh: mức độ cạnh tranh trên thị trường, chi phí kinh doanh,
thuế xuất nhập khẩu rất khác nhau. Cho nên khi cơ cấu hàng kinh doanh thay đổi sẽ
làm thay đổi chẳng những lợi nhuận chung của công ty, mà tỷ suất lợi nhuận theo các
cách tính khác nhau cũng sẽ thay đổi. Nếu kinh doanh mặt hàng có lãi suất lớn chiếm tỷ
trọng cao trong toàn bộ cơ cấu hàng xuất khẩu thì tương ứng hiệu quả cao và ngược lại.
* Nhân tố giá cả.
Nhân tố giá cả ở đây bao gồm giá cả của hàng hoá xuất khẩu, giá cả chi phí lưu
thông và tỷ giá hối đoái, ba nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của công ty.
Giá cả hàng hoá: giá mua hàng hoá và giá bán hàng hoá xuất khẩu có ảnh hưởng
trực tiếp tới lợi nhuận của đơn vị kinh doanh. Nếu giá mua hàng hoá quá cao, thì lãi gộp
giảm xuống và lợi nhuận cũng giảm và ngược lại. Định giá bán trên thị trường cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi nhuận. Bình thường giá cả định cao trong điều kiện không có
cạnh tranh thì lợi nhuận thu được dưới dạng lợi nhuận độc quyền cao. Nhưng định giá
bán cao trong điều kiện thị trường có cạnh tranh gay gắt, sức mua thấp thì hàng hoá sẽ
tiêu thụ chậm và lợi nhuận sẽ giảm. Cho nên trong điều kiện thị trường nhà kinh doanh
phải nắm vững thị trường để đề ra chính sách giá cả phù hợp và mục đích cuối cùng là
đẩy mạnh doanh số bán, chiếm lĩnh thị trường và tăng mức lợi nhuận tuyệt đối cho

doanh nghiệp.
Giá cả chi phí lưu thông: chi phí lưu thông chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí
cho hàng xuất khẩu, chi phí lưu thông lớn lợi nhuận sẽ giảm và ngược lại. Cho nên giá
cả chi phí lưu thông tăng hay giảm cũng ảnh hưởng tới lợi nhuận cũng như hiệu quả của
doanh nghiệp. Cho nên phấn đấu giảm chi phí lưu thông có ý nghĩa thiết thực đối với
tăng hiệu quả xuất khẩu.

Tỷ giá hối đoái giữa ngoại tệ và tiền Việt Nam thay đổi cũng ảnh hưởng trực tiếp
tới lợi nhuận của nhà kinh doanh xuất khẩu. Tăng tỷ giá ngoại tệ và đồng VN sẽ khuyến
khích xuất khẩu, xuất khẩu sẽ có lợi và ngược lại. chính vì vậy đối với các nhà xuất
khẩu, mặc dù tỷ giá hối đoái tăng hay giảm là yếu tố khách quan, nhưng việc theo dõi
diễn biến của tỷ giá để kịp thời đề ra những biện pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh
của mình cũng có tác dụng tăng thêm lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh cho
công ty.
* Thuế
Thuế là những khoản nghĩa vụ mà các đơn vị xuất nhập khẩu phải nộp cho nhà
nước. Mức thuế ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu các nhà xuất khẩu khi
chọn mặt hàng kinh doanh chú ý theo các nguyên tắc khi xây dựng luật thuế của nhà
nước thì cũng giảm đáng kể được thuế và tăng lợi nhuận.
Ngoài các nhân tố trên thì còn có nhiều nhân tố khác ảnh hưởng tới hiệu quả kinh
doanh xuất khẩu. Như giảm tới mức tối thiểu các khoản tiền bị phạt và bồi thường do
không thực hiện hợp đồng, giảm lượng hàng hoá hao hụt, mất mát ở tất cả các khâu kinh
doanh, chọn hình thức thanh toán phù hợp…cũng góp phần tăng mức lợi nhuận cũng
như nâng cao hiệu quả xuất khẩu của doanh nghiệp.
1.2.2.4. Phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu
Phương hướng chung để nâng cao hiệu quả xuất khẩu cũng là tăng doanh thu,
giảm chi phí hay làm cho tốc độ tăng doanh thu lớn hơn tốc độ tăng chi phí. Sau đây là
một số biện pháp cụ thể để tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu quả xuất khẩu của doanh
nghiệp.
* Tăng khối lượng bán hàng xuất khẩu

Tăng khối lượng bán hàng xuất khẩu chẳng những tăng lợi nhuận do thu lợi trên
mỗi sản phẩm hàng hoá bán ra mà chi phí lưu thông cũng sẽ giảm đi do sử dụng tài sản
cố định có hiệu quả hơn, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận do vậy cũng tăng.
Tăng khối lượng hàng xuất khẩu bán ra bằng cách: tìm hiểu kĩ thị trường để mua
hàng hoá xuất khẩu phù hợp với thị hiếu của khách hàng, tránh tình trạng mua hàng vào
bán không được do nguyên nhân chủ quan; tìm thêm khách hàng mua hàng xuất khẩu;
tổ chức nguồn hàng về số lượng và chất lượng.
* Tăng giá bán hàng xuất khẩu

Dưới cơ chế thị trường thì việc tăng giá bán hàng xuất khẩu sẽ rất nhạy cảm, nó sẽ
tác động ngay tới khối lượng hàng hoá tiêu thụ. Vì vậy một sản phẩm muốn có giá bán
cao trước hết nó phải có chất lượng tốt, do đó để nâng cao chất lượng sản phẩm doanh
nghiệp phải tích cực đầu tư để đổi mới công nghệ sản xuất… ngoài ra một sản phẩm có
giá cao có thể do nó có mẫu mã kiểu cách đẹp. Hiện nay có xu hướng là một số doanh
nghiệp đi vào kinh doanh những sản phẩm “ độc” và do đó định giá sản phẩm ở mức
cao để thu lợi nhuận cao trên một đơn vị sản phẩm.
* Thực hiện những biện pháp giảm chi phí lưu thông xuất khẩu
Để thực hiện giảm chi phí lưu thông xuất khẩu có các biện pháp cụ thể sau:
Tăng mức lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu: mở rộng và tăng nhanh tốc độ lưu
chuyển hàng hoá xuất khẩu là một nhân tố quan trọng giảm tỷ suất chi phí lưu thông và
nâng cao hiệu quả xuất khẩu, cho nên để đẩy mạnh mức lưu chuyển hàng hoá, rất cần
thiết phải làm tốt công tác tiếp thị, qua đó tìm hiểu dung lượng thị trường và thị hiếu
người tiêu dùng… đặc biệt chú ý khâu dự trữ hàng hoá để tránh hiện tượng thiếu hàng
kinh doanh hoặc dự trữ vượt định mức gây ứ đọng vốn, hàng xuống cấp dẫn đến chi phí
lưu thông cao.
Tổ chức tốt công tác vận tải hàng hoá: để giảm chi phí vận tải, trước tiên cần hợp
lí hoá quãng đường vận chuyển, tránh vận tải vòng, sử dụng xe hai chiều, ít khâu trung
gian sẽ tiết kiệm được chi phí bốc dỡ, bảo quản hàng hoá, sử dụng tối đa công suất và
trọng tải của các phương tiện vận tải và bốc dỡ.
Tổ chức tốt công tác quản lí kho như sử dụng tối đa công suất của kho về diện tích

và không gian chiếm dụng… tăng cường công tác bảo vệ nhằm tránh thất thoát hao hụt
hàng hoá xuất khẩu góp phần giảm chi phí lưu thông
Ngoài ra để giảm chi phí lưu thông doanh nghiệp cũng cần phải nâng cao trình độ
nghiệp vụ của cán bộ xuất khẩu, và quản lí tốt công tác thực hiện kế hoạch chi phí lưu
thông.
Tóm lại, để tăng hiệu quả kinh doanh xuất khẩu mỗi doanh nghiệp phải xây dựng
cho mình biện pháp riêng phù hợp với điều kiện, tình hình của doanh nghiệp và nhìn
chung để nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp cần phải áp dụng một cách đồng bộ các
biện pháp trên.

1.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu đối với các doanh
nghiệp Việt nam
Như ta đã biết hiệu quả kinh doanh là các chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa kết
quả và chi phí. Nâng cao hiệu quả kinh doanh là tìm mọi cách thay
đổi mối tương quan kết quả và chi phí theo chiều hướng có lợi cho kết quả cả về tuyệt
đối lẫn tương đối.
Các công ty kinh doanh nói chung và các công ty kinh doanh xuất khẩu nói riêng
khi hoạt động thì mục tiêu của họ là lợi nhuận tối đa. điều này chỉ có thể đạt được khi
doanh thu lớn hơn tổng chi phí. Nếu kết quả này đủ lớn thì các doanh nghiệp mới có thể
tồn tại và phát triển được, khi đó ta nói doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Ngược lại
nếu kết quả đó không đủ lớn thì doanh nghiệp đó rất có thể bị phá sản, không thể tồn tại
trên thị trường, khi đó ta nói doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả.
Từ nhận định trên ta có thể nói hiệu quả kinh doanh là điều kiện tồn tại, là mục
tiêu tồn tại của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng. Hơn nữa
doanh nghiệp phải luôn biết được mình hoạt động có hiệu quả hay không hay đang
trong tình trạng thua lỗ, nếu có hiệu quả thì cụ thể đạt ở mức nào, để liên tục nâng cao
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đây là vấn đề cần thiết và cấp bách đối với
doanh nghiệp vì:
- Chỉ có kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển
trong dài hạn

- Chỉ kinh doanh có hiệu quả cao thì doanh nghiệp mới ngày càng có uy tín và vị
thế trên thị trường.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh ở đây không phải là chỉ tìm cách nâng cao hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp năm sau so với năm trước mà phải được hiểu theo
nghĩa là tìm cách nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình so với doanh
nghiệp của đối thủ cạnh tranh. Vì trong cơ chế thị trường, khi mà xu hướng cạnh tranh
ngày càng gay gắt, nếu doanh nghiệp không nâng cao hiệu quả kinh doanh để tích luỹ
vốn từ đó tăng nhanh khả năng quay vòng vốn, tăng cường đầu tư nâng cao chất lượng
sản phẩm…từ đó tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thì sản phẩm

của doanh nghiệp sẽ dần trở nên lạc hậu và mất khả năng cạnh tranh so với các sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh và doanh nghiệp sẽ khó mà tồn tại được.
Tóm lại, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ và cũng là mục tiêu của bất
kì một doanh nghiệp nào nói chung hay của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nói
riêng.






Chương 2
Thực trạng hiệu quả kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I
2.1. Giới thiệu khái quát về công ty
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.1.1. Sự hình thành công ty
Đầu những năm 1980 khi nhà nước ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới
nhằm khuyến khích hoạt động xuất nhập khẩu phát triển .Bên cạnh những thành tựu đạt
được như hoạt động xuất khẩu ở các địa phương phát triển, kim ngạch xuất khẩu tăng
nhanh thì trên thị trường cũng xuất hiện một số hiện tượng tiêu cực như tranh mua,

tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh…
Trước tình hình đó bộ Ngoại Thương ( nay là bộ thương mại ) đã quyết định thành
lập công ty xuất nhập khẩu tổng hợp  với mục đích thúc đẩy xuất nhập khẩu phát triển
và từng bước ổn định lại thị trường. Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp  được thành lập
ngày 15/12/1981 theo quyết định số 1365/TCCB của bộ ngoại thương và đến tháng
3/1982 công ty đã đi vào hoạt động
2.1.1.2. Quá trình phát triển của công ty xuất nhập khẩu tổng hợp


Căn cứ vào tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, có thể
chia quá trình phát triển của công ty thành các giai đoạn như sau:

Giai đoạn thứ nhất : 1981 - 1984.
Giai đoạn thứ hai : 1985 - 1989.
Giai đoạn thứ ba : 1990 – nay.
* Giai đoạn 1981-1984.
Đây là giai đoạn đầu, công ty đang từng bước tìm cho mình một hướng đi đúng để
có thể đứng vững và phát triển.
 Do mới thành lập, với điều kiện ban đầu còn nhiều khó khăn, thiếu thốn:
 Về tổ chức: với biên chế gồm 50 cán bộ công nhân viên, số cán bộ có trình độ
nghiệp vụ rất ít và chủ yếu làm công tác nhập hàng, phục vụ cho công tác xk tại chỗ, có
thể nói đội ngũ cán bộ là còn thiếu và yếu.
+ Về cơ sở vật chất: cơ sở vật chất nghèo nàn và hầu hết do bộ cung cấp.
+ Về cơ chế chính sách: cơ chế quan liêu bao cấp còn thống trị, đưòng lối đổi mới
chưa được thể hiện rõ nét nhất là về đổi mới kinh tế
 Với điều kiện tình hình ban đầu như trên hoạt động kinh doanh của công ty giai
đoạn này gặp nhiều khó khăn.
+ Mối quan hệ giữa công ty với các cơ sở trong nước chưa được xác lập , chưa
mấy địa phương biết đến công ty hoặc các địa phương còn chưa mấy tin tưởng vào cung
cách làm ăn của công ty, tên tuổi của công ty cũng còn quá mới mẻ với khách hàng

nước ngoài.
+ Nhịp độ phát triển công tác xuất nhập khẩu của công ty còn rất chậm.
 Trong giai đoạn này công ty đã thực hiện một số biện pháp để thúc đẩy hoạt
động sản xuất kinh doanh phát triển:
+ Công ty cho rằng vấn đề cốt lõi lúc này là công tác tổ chức và con người: công
ty đã sắp xếp lại các phòng nghiệp vụ và quản lí một cách linh hoạt phù hợp với hoạt
động của công ty.
Để đào tạo đội ngũ cán bộ công ty đã lấy công tác thực tế tổ chức thường xuyên
những buổi học tập, trao đổi kinh nghiệm …Công ty cũng mạnh dạn gửi cán bộ đi đào
tạo theo trường lớp ở trong và ngoài nước nhằm chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho công ty
trong tương lai.
+ Song song với việc giải quyết các vấn đề trọng tâm nêu trên công ty còn tập
chung giải quyết một số vấn đề như:

×