Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận: Đô la hóa ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.46 KB, 33 trang )

Tiểu luận
Đô la hóa ở Việt Nam
- Thực trạng và giải
pháp
1
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện đại, cùng với tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ, quá
trình tự do hóa tài chính liên tục, các luồng tài chính dòng vốn được giao lưu tự do và
xuyên suốt từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh đó nền kinh tế mỗi
quốc gia càng gắn liền với tình hình biến động kinh tế chính trị diễn ra trong toàn cầu,
Việt Nam chúng ta đã gia nhập WTO, cũng chịu sự tác động to lớn trong xu thế đó.
Một nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự chủ về tài chính sẽ giúp nền kinh tế đất
nước có sức đề kháng trước những cú sốc kinh tế bên ngoài nhất là các cuộc khủng
hoảng kinh tế. “Chẩn đoán” ra các căn bệnh của nền kinh tế và tìm cách “chữa trị” nó
là cách hữu hiệu để đứng vững trên con đường hội nhập, trong đó vấn đề đặt ra đối với
hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế hiện nay là tình hình “đôla hóa” mà theo các
chuyên gia “đôla hóa Việt Nam đang ở mức báo động” có thể ảnh hưởng rất sâu sắc
đối với nền kinh tế Việt Nam.
Hiện tượng đôla hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền
tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đôla Mỹ, được sử dụng trong giao lưu
quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Cho nên người ta thường gọi hiện tượng
ngoại tệ hóa là "đôla hóa". Để có một cách đánh giá tổng quát hơn về tình trạng đô la
hoá., cũng như tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng đô la hoá ở Việt Nam là
vấn đề cần thiết và cấp bách, nhóm 3 chọn đề tài: "Đô la hóa ở Việt nam: thực trạng
và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ nghiên
cứu nền kinh tế bị đôla hóa bằng đồng USD mà cụ thể là nên kinh tế Việt Nam trong
giai đoạn từ sau cải cách kinh tế đến nay.
Do kiến thức và thời gian còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu
xót, sai lầm, chúng tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy, cô giáo và các bạn.
Qua đây, nhóm 3 xin cảm ơn PGS – TS. Phạm Thị Thu Thảo đã hướng dẫn chúng tôi


hoàn thành đề tài này.
Kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về đô la hóa và tác động của nó đối với nền kinh tế
Chương II: Thực trạng đô la hóa ở Việt Nam
Chương III: Kinh nghiệm và giải pháp khắc phục hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
I. Lý luận chung về đô la hóa
1. Khái niệm đô la hóa
Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại
tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số
chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc một phần. Sở dĩ đây là
tên gọi chung của hiện tượng ngoại tế hóa, nhưng do đồng Đô la Mỹ từ trước tới nay
luôn chiếm vị thế quan trọng nhất trong nền kinh tế quốc tế nên người ta thường gọi
hiện tượng ngoại tệ hoá là "đô la hoá".
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la
hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối
tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp đô la
hoá cao có 19 nước, trường hợp đô la hoá cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2
khoảng 16,4% có 35 nước, trong số đó có Việt Nam.
2. Phân loại đô la hóa
Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: đô la hoá không chính thức (unofficial
Dollarization), đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính
thức (official dollarization).
- Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi
trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.
Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:
• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.

• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
- Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai
đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm
chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp
trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một
ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
- Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xảy ra khi đồng
ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không
chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp
3
trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai
trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ.
Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc
thực thi các chương trình ổn định kinh tế.
Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được
lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một
đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.
Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức độ đô la hoá cao với tỷ lệ
tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30%, bao gồm các nước: Argentina, Azerbaijian, Belarus,
Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea - Bissau, Laos, Latvia,
Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và Uruguay. 35
nước có mức độ đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4%, bao gồm các
nước: Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà Czech, Dominica, Honduras, Hungary,
Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia, Malawi, Mexico, Moldova, Mongolia,
Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia, Sierra Leone, Cộng hoà Slovak,
Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Việt Nam, Yemen và Zambia.
Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài
nắm giữ từ 55 đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.

Theo đánh giá của IMF, Việt Nam là nước “đô la hóa không chính thức”.
3. Nguyên nhân của đô la hóa
Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở
các nước chậm phát triển. Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát
cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị
khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương
tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng
làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.
Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng thuộc tính của tiền tệ, đó là:
• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.
• Chức năng làm phương tiện cất giữ.
• Chức năng làm phương tiện thanh toán.
Thứ hai, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong
đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao
lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền
mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ
XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.
4
Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được
quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, France, Thụy Sỹ, Euro của EU
nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ
là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho
nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là "đô la hoá".
Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ
chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và
hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước,
nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để
thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành
thói quen thông lệ ở các nước.
Mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền

kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân
hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng
tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ
đô la hoá càng cao.
II. Tác động của hiện tượng đô la hóa
Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực.
1. Những tác động tích cực
Thứ nhất, việc sử dụng càng nhiều đồng ngoại tệ mạnh trong nền kinh tế như
đồng đô la Mỹ thay cho đồng nội tệ yếu sẽ làm giảm áp lực đối với nền kinh tế trong
những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn
định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự
bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính
thức.
Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì
được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư
nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân
hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng
thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải
thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương
trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
Thứ hai, đô la hóa sẽ tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng
hội nhập quốc tế. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các
ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải
5
vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối
với luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động
đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
Tác động tích cực thứ ba là hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá
chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền
này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng

không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí
kinh doanh.
Thứ tư là thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính
thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến
khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được, chênh
lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc
đẩy tăng trưởng và đầu tư.
Cuối cùng là thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí
chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để
chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính
thức (thị trường hợp pháp).
2. Những tác động tiêu cực
Thứ nhất là làm ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô.
Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế
vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi
diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế.
- Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :
• Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó
dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông
kém chính xác và kịp thời.
• Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó
những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông
qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
• Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể
thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định,
do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng
đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.
Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền,
thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực
xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.

6
• Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định.
Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm
cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối
lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài
có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu
cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc
đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống
ngân hàng.
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho
người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay,
đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng
không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.
Thứ hai là khiến cho chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ.
Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của
đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một
nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt
về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những
chính sách tiền tệ khác nhau.
Thứ ba, Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung
ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển
chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng
vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng.
Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này.
Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối
với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất
ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi
chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.
7
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA Ở VIỆT NAM

Đô la hóa có thể là một giải pháp hiệu quả đối với các nền kinh tế mở, khá nhỏ
và có mối quan hệ thương mại cũng như tài chính chặt chẽ đối với quốc gia cung cấp
đồng tiền thay thế. Việt Nam rõ ràng không phải là ứng cử viên được hưởng lợi từ đô-
la hóa do khác biệt lớn so với Mỹ về sự giàu có, cơ cấu kinh tế và sự hội nhập thấp về
thị trường vốn, lao động. Ngoài ra, mặc dù đô-la là đồng tiền quốc tế chủ yếu, được ưu
tiên trong cán cân của Việt Nam, chứ không phải là đồng euro hay yen Nhật, nhưng
Việt Nam lại có quan hệ thương mại đa dạng với các nước khác trên thế giới. Mặc dù
buôn bán với Mỹ đang tăng nhanh song buôn bán với các nước châu Á, đặc biệt là
Nhật Bản và châu Âu cũng chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Bức tranh tổng quát về tình hình đôla hóa ở Việt Nam qua các năm được biểu
hiện cụ thể qua số liệu sau:
Biểu đồ 1. Tỉ lệ đô la hóa ở Việt Nam giai đoạn 1998 - 2005
Nguồn: VNEconomy
I. Biểu hiện đô la hóa ở Việt Nam
Đô la hóa ở Việt Nam biểu hiện rõ ở hai lĩnh vực hoạt động quan trọng của nền kinh tế
khi Việt Nam bước vào nền kinh tế thị trường: thứ nhất là đô la hóa trong hoạt động
ngân hàng và thứ hai là đô la hóa trong hoạt động thương mại, đầu tư.
8
1. Đô la hóa trong hoạt động ngân hàng
Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch
buôn bán bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận
tiền gửi bằng đồng đô la. Đến năm 1992, tình trạng đô la hoá đã tăng lên mạnh với hơn
41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đô la USD. Trước tình trạng này, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la hoá nền kinh tế và đã
khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn
20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến
cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình
trạng đô la hoá.
Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến
31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003

còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là 22%. Cuối năm 2007, con số này ở mức 20 - 21
%. Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đô la hoá tài sản nợ trong hệ thống
ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả, người dân đã có
niềm tin vào đồng tiền nội địa nhiều hơn. Tuy nhiên, đến đầu năm 2008, khi tình trạng
lạm phát tăng cao, tâm lý lo lắng về sự mất giá của đồng nội tệ tăng lên thì tình trạng
đô la hoá ở nước ta đang có nguy cơ trầm trọng trở lại.
Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ
này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan,
Malaysia chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm
2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15%.
Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không
ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách
lựa chọn: một là đem gửi ở ngân hàng nước ngoài - những nước có lãi suất tiết kiệm
bằng đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất hoặc thực
hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và
cho các doanh nghiệp trong nước vay. Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một
lượng USD tương đối lớn, song hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều
rủi ro do giá USD trên thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã từng có giai đoạn bị thua lỗ hàng
9
chục triệu USD do kinh doanh ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực
hiện theo cách thứ 2: đầu tư cho vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các
giao dịch, thanh toán bằng USD trên nhiều loại thị trường. Điều này không những đẩy
nhanh quá trình đô la hóa mà còn mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng
USD: họ kinh doanh bằng VNĐ nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm
nhiên sẽ phải gánh chịu rủi ro về tỷ giá.
Biểu hiện cụ thể của Đô la hóa ở Việt Nam qua các con số như sau :
Bảng 1 : Tỷ lệ tiền gửi bằng đồng USD trên tổng phương tiện thanh toán
(FCD/M2) ở Việt Nam

STT Năm Tỷ lệ
1 1989 28.2
2 1990 32.4
3 1991 41.2
4 1992 30.6
5 1993 22.9
6 1994 22.2
7 1995 21
8 1996 20.3
9 1997 23.6
10 1998 24.6
11 1999 26.1
12 2000 26.9
13 2001 31.7
14 2002 28.4
15 2003 23.6
16 2004 24.3
17 2005 23
18 2006 21.6
19 03/2007 19.6
20 06/2007 20.2
Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007
10
Biểu đồ: Tỉ lệ đô la hóa giai đọa 1989 – 2007 của Việt Nam
Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối bằng đô la thì không ngừng tăng lên, đến tháng
6/2007 đã ở mức 13,992 tỷ USD. Con số này một mặt cho thấy tiềm lực nguồn vốn
nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được cho đầu tư phát triển
kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc độ đô la hoá.
Bảng 2 : Khối lượng tiền gửi bằng đồng USD (FCD) tại các ngân hàng Việt Nam
STT Thời gian FCD (triệu USD)

1 2003 6,220
2 2004 8,215
3 2005 10,027
4 2006 12,396
5 03/2007 12,560
6 06/2007 13,992
Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007
Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đô la
Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu hướng
tăng lên, cao hơn cả tiền gửi đô la. Đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh, dư nợ cho
vay bằng đô la Mỹ cuối tháng 9 năm 2004 đã tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002.
11
Bảng 3 : Tỷ lệ dư nợ cho vay bằng ngoại tệ trên tổng dư nợ cho vay
STT Thời gian Tỷ lệ (%)
1 2003 22
2 2004 24.9
3 2005 24.3
4 2006 21.1
5 03/2007 22
6 06/2007 22.2
Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007
Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ hiện
nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy
mô lớn ở Hà Nội, thông tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm có thể thấy
mức độ sử dụng đô la Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm. Có thể nói Việt Nam
là một nền kinh tế bị đô la hoá một phần. Tuy vậy, mức độ chính xác của đô la hoá là
số liệu rất khó xác định. Trong một số năm khi lãi suất tiền gửi đồng đô la ở các ngân
hàng nước ngoài ở mức cao, để sử dụng những đồng tiền đô la mà người dân đã gửi
vào ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn đô la gửi ra các ngân
hàng nước ngoài, chủ yếu là ở Singapore và Hồng Kông, để kiếm lãi suất cao. Điều

này có tác động xấu bởi vì những đồng đô la đó đã không được sử dụng để đầu tư trong
nước.
Đến năm 1992, lãi suất đồng đô la giảm mạnh, các ngân hàng Việt Nam không
còn thu lời được từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn tiền về, con
số đó khoảng từ 3 đến 4 tỷ USD. Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi chỉ còn một nửa
tính đến thời điểm cuối năm 2003.
Sau khi rút tiền đô la từ ngân hàng nước ngoài về, các ngân hàng Việt Nam bắt
đầu cho các doanh nghiệp trong nước vay bằng đồng đô la để sinh lợi. Nếu nhìn về
hình thức bên ngoài thì điều này có vè yên ổn đối với các ngân hàng, bởi vì họ nhận
tiền gửi và cho vay đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro. Nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta
nhận thấy các doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền Việt Nam bị giảm
giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt Nam, nhưng họ phải
trả nợ bằng đồng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỷ giá giữa đồng
USD và đồng tiền Việt Nam mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro. Nếu
12
đồng đô la tăng giá, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khả năng thanh toán nợ. Khi
đó các ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
2. Đô la hoá trong lĩnh vực thương mại
Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các
sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử, kinh doanh nhà hàng, khách sạn…. Ta có thể
thấy bằng trực giác việc niêm yết giá bằng cả VND lẫn USD ở hầu như 100% các trang
web bán đồ điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại v.v Mặc dù hai
loại giá được đặt song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng
USD, nếu khách hàng thanh toán bằng VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối
đoái giữa VND và USD ngày hôm thực hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là
những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu
từng liên kiện, nên giá của chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy, các doanh
nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD. Ngoài ra,
doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại", "thương mại điện
tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng sẽ trở thành loại hình kinh

doanh chủ yếu trong tương lai.
II. Nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam.
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan chung của hiện tượng đô la hóa, thì tại
Việt Nam còn có những nguyên nhân chủ quan, đặc thù dẫn tới tình trạng, mức độ đô
la hóa trong nền kinh tế hiện nay.
1. Người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ổn
định trong một thời gian dài và tâm lý lo ngại đồng nội tệ bị mất giá
Nguyên nhân này mang tính lịch sử, do Việt Nam từng trải qua một thời kỳ lạm
phát trầm trọng. Bất cứ một nền kinh tế nào bị đôla hóa đều có căn nguyên từ phát từ
người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ổn định trong
một thời gian dài và đồng nội tệ bị mất giá, điều này làm gia tăng phí bảo hiểm rủi ro
đối với tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ.
Người dân mất lòng tin vào chính sách tiền tệ do tỷ lệ lạm phát không ốn định
trong một thời gian dài, tỷ giá hối đoái giảm, làm gia tăng các chi phí bảo hiểm rủi ro
đối với tài sản danh nghĩa bằng đồng nội tệ. Do vậy, công chúng chuyển các tài sản
13
danh nghĩa sang một đồng tiền ổn định hơn hoặc các tài sản thực. Tại Việt Nam là
vàng và kể từ năm 1990 là đô la Mỹ.
Đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng
tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát
phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho đồng
nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một
khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang
ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ
sang VNĐ. Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ
và tiện dụng của nó.
Bảng : Chỉ số CPI của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2009
Năm CPI (%)
1998 7.8
1999 4.1

2000 -1.7
2001 0.8
2002 1.5
2003 3
2004 9.5
2005 8.4
2006 7.5
2007 8.3
2008 22.9
2009 6,68
Biểu đồ: Chỉ số CPI của Việt Nam qua các năm
14
Chỉ số giá hàng tiêu dùng ở Việt Nam rất không ổn định. Tỷ lệ lạm phát năm
1998 là 7.8%, giảm dần trong một số năm tiếp theo thậm chí nền kinh tế nằm trong tình
trạng giảm phát trong năm 2000 (tỷ lệ lạm phát -1,7%), tăng đột biến đạt 9.5% năm
2004 và dưới tác động của khhủng hoảng kinh tế thế giới, năm 2008 CPI đã tăng vọt
lên 22,9%, gây ảnh hưởng rất lớn đến thị trường tiền tệ nói chung. Ở Việt Nam, tuy
lạm phát trong những năm qua đã duy trì ở mức thấp không vượt quan 2 con số, tuy
nhiên trong thời gian qua tình hình thế giới có nhiều biến động, khủng hoảng khu vực,
giá dầu leo thang, giá vàng nhiều biến động, điều này dẫn đến tâm lý người dân bất an
khi nắm giữ tài sản bằng VND. Năm 2005, 2006 giá vàng và các mặt hàng chủ yếu
như xăng, điện, thép… đều tăng, giá lương thực tiêu dùng trong nước cũng tăng đáng
kể, tin nóng hổi nhất là ngành than cũng đang dự kiến tăng giá kéo theo dự kiến tăng
giá của ngành sản xuất xi măng….
Biểu đồ: Chỉ số CPI của Việt Nam so với các nước trong khu vực giai đoạn 2000
- 2007
15
Những thay đổi về chính sách kinh tế và tiền tệ của chính phủ: Hai lần phá giá
tiền đồng vào các năm 1985 và 1997 – 1998 làm những người cất giữ tiền đồng bị thiệt
hại không nhỏ so với việc cất giữ bằng USD. Do nền kinh tế còn nằm trong tình trạng

nghèo nàn lạc hậu gặp phải những sai lầm trong cải tạo các thành phần kinh tế nhất là
cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp dụng cơ chế bao cấp giống như ở
miền Bắc nên lạm phát tiếp tục gia tăng, từ chỗ giá trị đồng tiền (đồng NHNN VN
được đổi ngày 2/5/1978) sát với sức mua của đô la Mỹ (1,25đ/1USD) đã nhanh chóng
bị dãn ra, đồng tiền NHNN VN mất giá mạnh so với đồng USD, tháng 9/1985 tỷ giá
giữa tiền đồng và USD là 150đ/USD.
Trước tình hình đó, 14/9/1985 Nhà nước tiến hành đổi tiền lần 4 theo tỷ lệ 10đ
tiền NHNN cũ ăn 1đ tiền NHNN mới. Đây là cuộc cách mạng tiền tệ theo trật tự ngược
Tiền – Lương – Giá. Sau đổi tiền tình trạng lạm phát càng tăng cao, 1986 lạm phát đạt
774%. Tháng 3 năm 1989 Việt Nam duy trì một hệ thống tỷ giá hối đoái có nhiều mức
khác nhau đều có lợi cho nhập khẩu. Để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu (năm 1989 Việt
Nam đẩy mạnh đổi mới nền kinh tế nhằm mở rộng tự do hóa nền kinh tế và thay đổi
sản xuất công nghiệp từ thay thế nhập khẩu sang định hướng xuất khẩu), tỷ giá VND
so với USD được phá giá cho các giao dịch thương mại trong khuôn khổ các kế hoạch
Trung ương. Biến động tỷ giá được thể hiện qua bảng sau:
Bảng : Biến động tỉ giá hối đoái của Việt Nam giai đoạn 1988 - 2010
Năm Tỷ giá
16
9/1988 900
1989 4.000
1992 11.500
1995 10.800
2004 15.770
2005 15.800
2006 16.017
2007 16.110
10/2008 16.610
1/2009 16.930
8/2010 18.932
Biểu đồ: Biến động tỉ giá hối đoái Việt Nam giai đoạn 1988 - 2010

2. Nền kinh tế Việt Nam khá dễ dàng cho hoạt động sử dụng ngoại tệ công khai
Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế tiền mặt, rất dễ dàng cho hoạt động mua bán
sử dụng ngoại tệ công khai. Hiện tượng niêm yết, quảng cáo sản phẩm bằng ngoại tệ
vẫn còn phổ biến công khai tuy NHNN đã có quy định cấm niêm yết quảng cáo bằng
ngoại tệ đối với các doanh nghiệp không có thu bằng ngoại tệ (Số 985/NHNN-QLNH).
17
Trong thời gian gần đây hoạt động niêm yết mua bán ngoại tệ tự do không còn công
khai nhưng hoạt động mua bán ngọai tệ ngầm vẫn tiếp diễn. Các quầy thu đổi chính
thức không kiếm chác được bao nhiêu nếu theo đúng nghĩa vụ với ngân hàng,do đó họ
làm theo kiểu thỏa thuận với nhau, họ đổi ngoại tệ cho cả những người lý ra không
được đổi, bán cho những người lẽ ra không được bán. Bên cạnh đó, tâm lý người dân
và các doanh nghiệp thích vẫn thích mua bán trên thị trường chợ đen, đã làm cho một
số lớn ngoại tệ chui vào túi tư nhân. Ngân hàng muốn thu mua ngoại tệ mà không được
vì ba lý do:
Tỷ giá hối đoái của VND/USD cố định và biên độ giao động thấp khoảng 0.25%,
điều này tạo một khoảng cách giữa thị trường ngọai tệ tự do và tỷ giá công bố của ngân
hàng thương mại nên người dân có đôla thường đi đổi tại các nơi đổi tiền của tư nhân
có lợi hơn là ra ngân hàng.
Bảng 2.7: Tỷ giá giữa USD và VND năm 2005 (số liệu ngày cuối tháng)
Đvt: Đồng/USD
Thời gian
Ngân hàng Ngoại thương Thị trường tự do Hà Nội
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Tháng 1 15788 15790 15790 15810
Tháng 2 15802 15804 15800 15820
Tháng 3 15822 15824 15810 15830
Tháng 4 15831 15833 15820 15850
Tháng 5 15850 15852 15840 15860
Tháng 6 15854 15856 15850 15870
Tháng 7 15861 15863 15870 15880

Tháng 8 15877 15879 15880 15890
Tháng 9 15894 15896 15880 15900
Tháng 10 15904 15906 15900 15900
Tháng 11 15909 15911 15940 15960
Tháng 12 15915 15917 15900 15930
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Thứ hai là đổi tiền tại các địa điểm tư thường dễ dàng và nhanh chóng hơn và
không bị các thủ tục hành chánh rườm rà chi phối. Theo quy định hiện nay của NHNN,
ở các ngân hàng cá nhân doanh nghiệp khi mua ngoại tệ phải có mục đích rõ ràng và có
các chứng từ chứng minh cho mục đích hợp pháp.
18
Thứ ba là Ngân hàng nhà nước hay những ngân hàng được phép kinh doanh ngoại
tệ thường không đủ đôla để cấp cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhập cảng hàng hóa
hay dịch vụ nên các cơ sở này phải mua đôla của tư nhân.
Bên cạnh đó, ta phải nhận thức ra tâm lý thích sử dụng, cất trữ ngoại tệ đã ngấm sâu
vào tưu tưởng của một bộ phận tầng lớp dân cư. Có thể sử dụng ngoại tệ tiện lợi, gọn
gàng hơn so với VND. Thực tế, nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu
khoảng 30 triệu đồng, thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 hoặc 300 tờ
100.000. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 đô, nếu bằng EUR chỉ
cần 3 tờ 500 EUR. Rất là tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được.
Tình trạng tham nhũng cũng góp phần tạo nên hiện tượng đôla hóa xã hội nhất là
khi đi phong bì bằng ngoại tệ vừa gọn vừa lịch sự. Đây chính là những nỗi nhức nhối
bức xúc là vấn đề nan giải đối với nhà nước nếu muốn hạn chế “đôla hóa” xã hội.
3. Nguồn cung ngoại tệ gia tăng nhanh chóng
Nguyên nhân thứ ba đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng
nhanh, đặc biệt là USĐ bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ. Nguồn
kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới
năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên :
• Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển
và sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền các cấp. Tình trạng các doanh nghiệp, các cửa

hàng kinh doanh bán hàng thu bằng ngoại tệ còn tuỳ tiện và diễn ra phổ biến.
• Thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp, đa số dân cư có tâm lý tiết kiệm để
dành, lo xa cho cuộc sống. Mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, xu hướng biến
đổi của tỷ giá VND/USD là nguyên nhân quan trọng của xu hướng tích trữ và gửi tiền
bằng đô la. Trong các năm đầu thời kỳ đổi mới 1989 - 1992, lạm phát ở mức rất cao.
Đồng tiền Việt Nam mất giá mạnh so với đồng đô la Mỹ, vàng tăng giá rất lớn. Do đó
nhiều người lựa chọn đô la để cất trữ và gửi ngân hàng. Trong các năm 1999 - 2001, lãi
suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh diểm giữa năm 2000
lên tới 6,5%/năm. Các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn đô
la lên tương ứng, đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế, đem lại lợi ích thu nhập về lãi
suất cho người dân và cho hệ thống ngân hàng.
19
• Cũng do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn đô la Mỹ bình quân chỉ có 5% -
6%/năm, thấp chỉ bằng 1/3 lãi suất vay vốn Việt Nam đồng, nên nhiều doanh nghiệp
lựa chọn vay đô la Mỹ, làm cho tỷ trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay đô la Mỹ tăng
lên.
• Bên cạnh đó nhiều người có tâm lý do sợ sự mất giá của Việt Nam đồng, nhất là
trong thời kì lạm phát tăng cao nên họ lựa chọn đô la Mỹ để gửi ngân hàng. Thực trạng
đó còn do nguyên nhân đồng tiền Việt Nam mệnh giá còn nhỏ, cao nhất là tờ 500.000
đồng được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại tương ứng với
gần 1,6 triệu đồng. Bởi vậy việc sử dụng đồng đô la tiện lợi trong các giao dịch lớn
như: mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức
tạp, việc sử dụng đô la Mỹ tiện lợi hơn nhiều đối với họ.
• Thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư ngày càng được mở rộng và
tăng lên. Đó là thu nhập của những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước
ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam; tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh
doanh du lịch; khách quốc tế đến và chi tiêu đô la bằng tiền mặt ở Việt Nam; người
nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu dùng; tiền của người Việt Nam định
cư ở nước ngoài gửi về; tiền của những người đi xuất khẩu lao động, đi học tập, hội
thảo, làm việc ngắn ngày mang về.

• Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng
nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam., năm 1996 mới là 1,607 triệu lượt
người; năm 1997 là 1,715 triệu ; năm 2002 là 2,628 triệu; ; năm 2004 đạt hơn 2,9
triệu lượt người. Năm 2008 đạt 4,25 triệu lượt khách, sang năm 2009 giảm còn 3,77
triệu lượt và chỉ trong 8 tháng đầu năm 2010, số lượng khách đã đạt 3,35 triệu lượt
khách. Số lượng khách đó mang theo một số lượng lớn ngoại tệ, và chi tiêu bằng ngoại
tệ tiền mặt tại các cơ sở tư nhân.
• Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ
thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ
của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước. Một số con số về tình
hình thu hút ODA vào Việt Nam trong giai đoạn 2007-2009:
Tổng vốn ODA ký kết tính đến 20/7/2008 đạt 1389 triệu USD, trong đó vốn vay
đạt 1277 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại đạt 112 triệu USD. Giải ngân vốn
ODA 7 tháng đầu năm nay (bao gồm cả vốn được ký kết trước 2008) đạt 1205 triệu
20
USD, bằng 63% kế hoạch năm, trong đó vốn vay đạt 1063 triệu USD, vốn viện trợ
không hoàn lại đạt 142 triệu USD. Trong tổng vốn giải ngân, vốn vay của 3 nhà tài trợ
lớn là WB, JBIC, ADB đạt mức giải ngân cao nhất với 850 triệu USD, chiếm 70% tổng
vốn giải ngân
Năm 2009: Tổng vốn ODA ký kết đạt ở mức 5.056 triệu USD (vốn vay: 4.822
triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 234 triệu USD), tổng vốn ODA được giải ngân
trong năm 2009 lên đến 3 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay.
Năm 2010: Hội nghị các nhà tài trợ năm 2009 đã khép lại với cam kết với số tiền
cam kết viện trợ kỷ lục từ trước tới nay: hơn 8 tỷ USD, trong đó hơn 1,4 tỷ USD là
viện trợ không hoàn lại
• Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư
gián tiếp. Lượng vốn đầu tư gián tiếp các năm 2006 đạt 2tỷ USD ; năm 2007 đạt 21tỷ
6,3 tỷ USD ; năm 2008 khoảng 4,6 tỷ. Dưới đây là số liệu về tình hình thu hút và thực
hiện vốn FDI
Giai đoạn Số dự án

FDI Đăng

Tb vốn/
DA
FDI thực
hiện
% thực
hiện
1990-2006

8,162 77,380 9.48 37,270 48%
2007

1,544 21,348 13.83 8,030 38%
2008

1,171 64,000 54.65 11,500 18%
2009

839 21,480 25.60 10,000 47%
2007-2009 3,554 106,828 30.06 29,530 28%
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài
Và trong 8 tháng đầu năm 2010, vốn FDI thu hút được đã đạt 11,6 tỷ.
Biểu đồ : Tình hình FDI giai đoạn 1990 - 2009
21
Bảng : Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát
triển của nền kinh tế. (đơn vị: tỷ USD)
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Kim ngạch
14 15 16 20 26 32 39 48 62

• Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động
kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý.
Bảng 4 : Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong các năm gần đây
STT Năm Lượng kiều hối(triệu USD)
1 1991 35
2 1992 1336.6
3 1993 140.98
4 1994 249.47
5 1995 284.96
6 1996 468.99
7 1997 400
22
8 1998 950
9 1999 1200
10 2000 1757
11 2001 1820
12 2002 2150
13 2003 2580
14 2004 3100
15 2005 4290
16 2006 4700
17 2007 5500
Nguồn : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biểu đồ: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam giai đoạn 1991 -2007
Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la
hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng.
Từ những nguyên nhân đã phân tích trên cho thấy, tình trạng đô la hóa ở Việt Nam
xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan của nền kinh tế thị trường cũng như những
nguyên nhân chủ quan xuất phát từ những yếu kém của nền kinh tế cũng như trong sự
điều hành chính sách tiền tệ. Hiện tượng đô la hóa đã có tác động không nhỏ đến đời

sống kinh tế xã hội của nước ta.
III. Tác động của hiện tượng Đô la hóa ở Việt Nam.
23
Hiện tượng đô la hóa ở Việt Nam đã đem đến cho nền kinh tế Việt Nam cả tác
động tích cực và lẫn tiêu cực.
1. Tác động tích cực
Đảm bảo tăng trưởng kinh tế trong mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát chấp nhận
được : Đồng USD đã trở thành một thành phần không thể thiếu trong khối tiền tệ quốc
gia, hơn nữa, đó là một thành phần tích cực. Chính sách tiền tệ thắt chặt của chúng ta
trong thời gian dài nhằm đối phó với nguy cơ lạm phát vốn luôn là nỗi ám ảnh thường
trực của các nhà lãnh đạo tiền tệ đã không tác động quá tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế chính là nhờ sự hiện diện của đồng đôla. Nhờ nó, các hoạt động kinh tế trong
khu vực tư vẫn tiếp tục tăng trưởng, ngay cả trong những thời kỳ mà khu vực này
không tiếp cận được các khoản tín dụng cần thiết từ hệ thống ngân hàng.
Ổn định tỷ giá VNĐ : Nguồn cung USD đầy đủ trong nền kinh tế cũng đã góp
phần ổn định tỷ giá đồng bạc Việt Nam và trong một số trường hợp nó còn đi quá đà
trong việc nâng cao tỷ giá của đồng bạc, khiến các chuyên gia kinh tế quy cho nó trách
nhiệm làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam. Những năm 2006, 2007
khi đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài tăng vọt cùng với sự gia tăng mạnh mẽ
của nguồn kiều hối, tỷ giá đồng bạc Việt Nam đã ổn định ở mức cao, dự trữ ngoại tệ
quốc gia tăng nhanh mặc dù nhập siêu lớn chưa từng có. Thậm chí, đã có lúc tiền đồng
khan hiếm nghiêm trọng khiến các ngân hàng thương mại, và cả Ngân hàng Nhà nước,
từ chối mua vào USD của các doanh nghiệp, gây nên tình trạng tắc nghẽn trong việc
triển khai dự án đầu tư nước ngoài.
Thu hút đầu tư nước ngoài, tăng nguồn cung ngoại tệ - nguồn lực quan trọng giúp
VN giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng - “Đô-la
hoá” có thể là yếu tố giúp Việt Nam thu hút khách du lịch, kiều hối, tạo thuận lợi cho
việc mua bán, trao đổi bằng ngoại tệ
2. Tác động tiêu cực
- Đô la hoá làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị

trường ngoại hối, không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thị trường ngoại hối,
mà các doanh nghiệp cũng đối mặt với nguy cơ thiệt hại lớn do không có công cụ
phòng ngừa rủi ro khi đồng đô la Mỹ biến động bất thường
24
- Mức cung tiền trở nên khó dự báo hơn và mức cầu nội tệ trong nước không ổn
định ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách tiền tệ
- Tình trạng đô la hoá cũng gây thêm khó khăn cho việc ổn định trở lại thị trường
ngoại tệ do đô la hoá làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu ngoại tệ
- Việc niêm yết giá bằng ngoại tệ cũng khiến cho người dân bị thiệt khi thanh toán
tiền mua hàng hoá do các cửa hàng áp dụng tỷ giá không thống nhất
Trong thời gian vừa qua, có thể thấy rõ tác động tiêu cực của tình trạng đô la hóa
nền kinh tế Việt nam. Hiện tượng đô la hóa trên thị trường tài chính đã tạo môi trường
cho các hoạt động đầu cơ mỗi khi có biến động về ngoại tệ. Điều này đã thể hiện rõ
qua việc trong nửa đầu năm 2008 giá một USD trên thị trường tự do rơi xuống tới
15.400 VNĐ và vài tháng sau đã vọt lên 19.500 VNĐ và tình hình thị trường chỉ chịu
đứng yên khi Ngân hàng Nhà nước tung nhiều tỷ USD dự trữ ngoại hối bình ổn thị
trường. Có thể thấy cung cầu ngoại tệ đã bị bóp méo một cách nghiêm trọng. Bên cạnh
đó, hiện tượng đô la hóa đã khiến việc kiểm soát cung tiền của Ngân hàng Nhà nước
trở nên khó khăn, làm giảm hiệu quả của các chính sách kiềm chế lạm phát.
Tỷ giá hối đoái giữa VND với USD đã biến động theo chiều hướng không ổn
định, giá trị VND sụt giảm. Trong khi đồng USD mất giá so với các đồng tiền khác
như đồng euro, yên…, còn VND lại giảm giá so với USD, nên tỷ giá VND với các
ngoại tệ khác càng bất lợi hơn đối với nước ta.
Điều đó có tác động đến thương mại quốc tế trong điều kiện tỷ lệ nhập siêu của
nước ta khá cao, các khoản nợ nước ngoài đến hạn phải trả, bởi vì phải làm ra một
lượng hàng hóa nhiều hơn bằng VND mới có thể trả được 1 đơn vị ngoại tệ; những
doanh nghiệp vay thương mại với lãi suất cao, thời hạn ngắn để đầu tư dài hạn càng
gặp nhiều khó khăn
25

×