Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện đại, cùng với tiến trình hội nhập diễn ra mạnh mẽ,
quá trình tự do hóa tài chính liên tục, các luồng tài chính dòng vốn được giao lưu
tự do và xuyên suốt từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong bối cảnh đó nền
kinh tế mỗi quốc gia càng gắn liền với tình hình biến động kinh tế chính trị diễn ra
trong toàn cầu, Việt Nam chúng ta đã gia nhập WTO, cũng chịu sự tác động to lớn
trong xu thế đó. Một nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tự chủ về tài chính
sẽ giúp nền kinh tế đất nước có sức đề kháng trước những cú sốc kinh tế bên ngoài
nhất là các cuộc khủng hoảng kinh tế. “Chẩn đoán” ra các căn bệnh của nền kinh
tế và tìm cách “chữa trị” nó là cách hữu hiệu để đứng vững trên con đường hội
nhập, trong đó vấn đề đặt ra đối với hệ thống tài chính cũng như nền kinh tế hiện
nay là tình hình “đôla hóa” mà theo các chuyên gia “đôla hóa Việt Nam đang ở
mức báo động” có thể ảnh hưởng rất sâu sắc đối với nền kinh tế Việt Nam.
Hiện tượng đôla hóa bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ
của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đôla Mỹ, được sử dụng trong giao lưu
quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Cho nên người ta thường gọi hiện tượng
ngoại tệ hóa là "đôla hóa". Trong phạm vi đề tài này, chúng ta giả định chỉ nghiên
cứu nền kinh tế bị đôla hóa bằng đồng USD mà cụ thể là nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn từ sau cải cách kinh tế đến nay.
I. Tổng quan về đô la hoá:
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Khái niệm về đô la hoá:
a. Khái niệm:
Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi
ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng tiền bản tệ trong toàn
bộ hoặc một số chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc
một phần.
Bất kỳ một ngoại tệ nào (như đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật) có khả năng thay thế
đồng nội tệ cũng dẫn đến hiện tượng “Đô la hóa”. Tuy nhiên trong tình hình hiện
nay, nói đến Đô la hóa, người ta chỉ nghĩ đến một đồng tiền duy nhất đó là Đô la
Mỹ (USD). Mặc dù hiệp ước Bretton Wood đã phá sản nhưng từ lâu USD đã trở
thành phương tiện thanh toán quốc tế mà không có đồng tiền nào có thể thay thế
được. Mặt khác, Mỹ luôn lợi dụng sự lớn mạnh của nền kinh tế đã gây sức ép với
nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó hệ thống tiền tệ vốn chưa “hoàn thiện”, và
còn rất “nhạy cảm” ở các nước đang phát triển.
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la
hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng
khối tiền tệ mở rộng (bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.
b. Phân loại:
• Căn cứ vào phạm vi: Tùy theo mức độ sử dụng rộng rãi đồng USD trong
nền kinh tế và thái độ của quốc gia đó đối với việc thừa nhận hay không thừa nhận
đồng Đô la mà Đô la hóa được chia làm 3 mức độ:
Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng
rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Đô la
hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:
Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức
hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiên lưu hành hợp pháp,
và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước
này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
Đô la hoá chính thức xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy
nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp
trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh
toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vài trò thứ cấp và
thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường
các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi
các chương trình ổn định kinh tế. Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có
một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la
hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.
• Căn cứ vào hình thức: Đô la hóa được thể hiện dưới 3 hình thức sau:
`Đô la hóa thay thế tài sản: Thể hiện qua tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng
phương tiện thanh toán (FCD/M2). Theo IMF, khi tỷ lệ này trên 30% thì nền kinh
tế đó được cho là có tình trạng đô la hóa cao, tạo ra các lệch lạc trong điều hành tài
chính tiền tệ vĩ mô. Nhìn chung đối với các nền kinh tế chuyển đổi, tỷ lệ đô la hóa
hiện nay bình quân là 29%.
Đô la hóa phương tiện thanh toán: Là mức độ sử dụng ngoại tệ trong thanh
toán. Các giao dịch thanh toán bất hợp pháp bằng ngoại tệ rất khó đánh giá nhất là
đối với những nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam.
Đô la hóa định giá, niêm yết giá: Là việc niêm yết, quảng cáo, định giá
bằng ngoại tệ.
2. Nguồn gốc của đô la hoá:
Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xảy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở
các nước chậm phát triển. Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm
phát cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm công cụ dự trữ
khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba
chức năng thuộc tính của tiền tệ, đó là:
• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.
• Chức năng làm phương tiện cất trữ.
• Chức năng làm phương tiện thanh toán.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ hai, mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát
triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ
thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển
đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia
đó sẽ có mức độ đô la hoá càng cao.
Thứ ba, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại,
trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng
trong giao lưu quốc tế làm vai trò của tiền tệ thế giới. Nói cách khác, đô la Mỹ là
một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lưu hành khắp thế
giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.
Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được
quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thụy Sỹ, euro của EU…
nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la
Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế
giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là đô la hoá.
Thứ tư, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ
chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư
và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi
nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ
thế giới để thực hiện một số chức năng tiền tệ.
3. Những tác động của đô la hoá:
Tình trạng đô la hoá nền kinh tế có những tác động tích cực và có cả những tác
động tiêu cực.
a. Những tác động tích cực:
• Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm
phát cao, bị mất cân bằng và các điều kiện vĩ mô không ổn định. Do có một lượng
lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm
phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức. Ở các nước
đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng đo la, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm
phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân,
khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng
trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng
thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các
chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
• Đô la hóa cũng là một trong những giải pháp giúp giảm lạm phát, từ đó có
thể giảm lạm phát, từ đó có thể giảm lãi suất thực nền kinh tế và kích thích đầu tư,
và do đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
• Đôla hóa cũng được cho là có tác dụng thúc đẩy phát triển ngành Ngân
hàng và nâng cao vai trò của nó trong nền kinh tế, phản ánh dưới góc độ tỷ trọng
tiền gửi trong hệ thống ngân hàng trong GDP (thuật ngữ chuyên môn gọi là “độ
sâu tài chính”) tăng lên khi có đôla hóa. Điều này có được là do người gửi tiền
thay vì chuyển tài sản của mình bằng ngoại tệ ra nước ngoài trong bối cảnh rủi ro
lạm phát cao nay được phép, và có thể yên tâm, gửi tài sản (bằng ngoại tệ) của
mình vào hệ thống ngân hàng trong nước và hưởng lãi tính theo ngoại tệ mà không
phải bận tâm đến lạm phát của bản tệ. Nói cách khác, đôla hóa giúp cung cấp
“dinh dưỡng” nuôi sống hệ thống ngân hàng trong nước.
• Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế.
Với một khối lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng
sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ
nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với
luông ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động
đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường
quốc tế.
• Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí
như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền
khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các
ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.
• Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức
có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến
khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được:
chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống,
thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.
• Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính thức.
Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển
các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính
thức (thị trường hợp pháp).
5