Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Tiểu luận: Chính sách đầu tư quốc tế của Singapore potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.32 KB, 11 trang )


Tiểu luận
Chính sách đầu tư quốc
tế của Singapore

MỤCLỤC
1
CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA SINGAPORE
I, Chính sách đầu tư quốc tế của Singapore giai đoạn 1965-1990:
Mô hình chính sách: Khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển
kinh tế, đặc biệt là tập trung vào các ngành công nghiệp hướng ra xuất khẩu.
Không vay nợ để đầu tư mà chủ yếu tạo môi trường cho tư nhân nước ngoài trực
tiếp bỏ vốn đầu tư.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiêp CB
Năm Tổng số tiền
( triệu USD)
Từ Mỹ Từ EEC Từ Nhật Bản
1970 995 313 406 68
1971 1576 501 616 108
1972 2283 840 863 137
1973 2659 992 912 237
1974 3054 1082 997 354
1975 4415 1370 1137 635
 Các biện pháp thực hiện:
1, Chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực

tăng
tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư
- Hầu hết hạ tầng giao thông do Chính phủ đầu tư, không có hình thức đầu tư
BOT. Chi phí duy tu hàng năm được tính bằng 1% giá trị công trình do ngân sách
cấp để duy tu sửa chữa thường xuyên mạng lưới giao thông.


- Từ những năm 1972, Chính phủ Singapore đã quy hoạch chiến lược mạng
lưới các trục giao thông để hình thành bộ khung cứng cho hệ thống giao thông
trong tương lai sau 40 năm và được phân kỳ đầu tư theo từng giai đoạn 5 năm, 10
năm, 15 năm. Sau 10 năm quy hoạch được xem xét điều chỉnh một lần
- Chú trọng đào tạo nâng cao nguồn nhân lực. Singapore có hệ thống giáo
dục rất hoàn thiện và rất chất lượng. Chú trọng đào tạo bậc đại học, đào tào nguồn
nhân lực chất lượng cao. Trường đại học quốc gia Singapore thanh lập năm 1980
và trường công nghệ Nangyang thành lập 1981 là 2 trong 3 trường đại học nổi
tiếng nhất của Singapore
- Định ra các ngành công nghiệp mũi nhọn(công nghiệp tiên phong) và đặt
ra nhiều ưu đãi. Kết quả là các công ty đa quốc gia đã tập trung vào các ngành
công nghiệp tiên phong để được hưởng ưu đãi từ chính phủ Sing.Đây có thể coi là
một trong những biện pháp khôn khéo của chính phủ Sing, vừa tập trung được vốn
vào các ngành công nghiệp mũi nhọn theo đúng mục tiêu ban đầu, vừa tránh được
những va cham, cạnh tranh giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài do: các
doanh nghiệp trong nước tập trung vào sản xuất và buôn bán các mặt hàng tiêu thụ,
các doanh nghiệp có đầu tư nước ngoài, các ngành công nghiệp mũi nhọn sản xuất
hướng ra xuất khẩu. Mỗi loại ngành có chế độ ưu đãi riêng về thuế: (Pháp lệnh
về các Ngành công nghiệp ưu tiên năm 1959)
+Đối với các xí nghiệp mũi nhọn: có mức đầu tư nước ngoài từ 1 triệu
đôla Singapore trở lên sẽ được miễn thuế trong 5 năm, lãi cổ phần và thu
nhập cũng được miễn thuế.
+Đối với các xí nghiệp hướng ra xuất khẩu có giá trị xuất khẩu trên
100.000 đô la Sing sẽ được miễn 90% thuế số lợi nhuận xuất khẩu tăng
thêm. Lợi nhuận xuất khẩu cũng chỉ chịu thuế 4% ( rất thấp so với mức 40%
đối với các ngành không hướng xuất khẩu)
+Các ngành vừa mũi nhọn vừa hướng ra xuất khẩu được miễn thuế 8
năm.
+Các ngành vừa mũi nhọn vừa xuất khẩu có vốn đầu tư trên 150 triệu
đôla Sing về tài sản cố định được miễn thuế 15 năm.

+Đối với các xí nghiệp mở rộng có đầu tư trên 10 triệu đô là Sing
cũng được miễn thuế một phần.
+Ngoài ra còn ưu đãi cho các xí nghiệp công nghiệp chế biến nguyên
vật liệu cơ khí, xí nghiệp vận tải biển, nhập kĩ thuật mới giúp cho quá trình
sản xuất xuất khẩu.
+Không đánh thuế nhập khẩu đối với các đầu vào sản xuất.
+Những xí nghiệp đầu tư nước ngoài được nhập thiết bị và nguyên
liệu không phải chịu thuế hải quan, được tự do chuyển lợi nhuận về nước,
trong quá trình kinh doanh nếu bị thua lỗ có thể được bù đắp bằng cách kéo
dài thêm thời hạn miễn thuế…
 Sing là nước đầu tiên và duy nhất trong số các nước mới CNH ngay từ
đầu đã dám ồ ạt đưa các công ty siêu quốc gia vào hoạt động trong nền kinh tế của
mình.
2, Cho phép các nhà đầu tư tự do chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.
Ban đầu để thúc đẩy tái đầu tư tại Sing, chính phủ Sing không cho phép các
nhà đầu tư chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, song sau này, do có sự cạnh tranh gay
gắt về thu hút đầu tư, Sing đã bỏ lệnh này và cho phép các nhà đầu tư chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài……
Chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài thông qua: Luật khuyến khích
và phát triển kinh tế 1967; Luật bổ sung 1970-1975; Luật thuế Thu nhậpvà những
điều khoản bổ sung mới vào cuối những năm 1970; Sang những năm 1980 các luật
trên lại được bổ sung và nới rộng nhiều điều khoản… Làm cho môi trường đầu tư
Sing vừa minh bạch vừa hấp dẫn, thu hút nhiều các nhà đầu tư nước ngoài đổ vốn
vào.
3, Cho phép các nhà đầu tư thuê lao động nước ngoài.
Theo thời gian, đặc biệt là trong thời kỳ 1985-1986, tiền lương tăng lên và
Singapore nhận thấy chỉ có thể giữ vững nền kinh tế bằng cách nâng cấp FDI và
nâng cao khả năng cạnh tranh của lực lượng lao động so với những nước láng
giềng có chi phí thấp. EDB đã tập trung vào những ngành có hàm lượng tri thức
cao để có thể trả tiền lương cao hơn. Để giải quyết việc thiếu lao động có kỹ thuật,

các công ty được khuyến khích tuyển dụng lao động nước ngoài. Gần đây, EDB đã
bắt đầu thu hút các trường đại học nước ngoài. Chương trình khu vực hoá của EDB
khuyến khích các công ty xây dựng các cơ sở có hàm lượng kỹ năng cao tại
Singapore và chuyển sản xuất sử dụng nhiều lao động và đất đai ra nước ngoài.
4, Chính sách miễn thuế bản quyền và thu nhập đối với các công ty đầu tư vào
lĩnh vực nghiên cứu.
Thời kỳ 1985-1986, là thời kỳ suy thoái đầu tiên của Singapore kể từ sau
chiến tranh, đã làm thay đổi các quan hệ lao động và thúc đẩy việc hình thành các
kế hoạch liên kết các công ty Singapore với các TNC (Trans National Corporations
– Công ty xuyên quốc gia). Singapore chỉ có thể giải quyết được tình trạng tiền
lương gia tăng nếu các công ty bản địa phát triển được năng lực (các nguồn lực kỹ
thuật và con người) và chính phủ khuyến khích bằng cách tài trợ nghiên cứu và
phát triển (R&D) để nâng cấp các TNC, thiết lập các cơ sở có kỹ năng cao và các
viện nghiên cứu chung).
EDB đã nỗ lực nâng cấp sản xuất trong nước bằng Chương trình Nâng cấp
Công nghiệp Bản địa (LIUP) năm 1986. Theo Chương trình này, các TNC được
khuyến khích ký kết các hợp đồng cung ứng dài hạn với các công ty bản địa. Các
công ty bản địa đã được hưởng lợi nhiều nhất trong ngành điện tử qua việc cung
ứng các dịch vụ bảo hành, các linh kiện và thiết bị cho các TNC sản xuất sản phẩm
bán dẫn. Những sáng kiến như LIUP cũng có tác dụng gắn kết FDI nhiều hơn với
nền kinh tế Singapore bằng các lợi ích chung và sự phụ thuộc lẫn nhau.
Trước tình hình nền kinh tế trong nước đã bão hòa, tích lũy cho đầu tư trong nước
cao hơn nhu cầu đầu tư, Singapore bắt đầu đầu tư ra nước ngoài: chủ yêu là vào
Trung Quốc, Malaixia và Indonexia. Hướng đầu tư ban đầu tập trung vào các
ngành công nghiệp chế biến cần nhiều lao động như sản xuất đồ điện, đồ điện tử,
công nghiệp nặng sử dụng nhiều vốn như hóa chất, cao su, lọc dầu; ngày nay các
nhà đầu tư chú trọng hơn vào dịch vụ tài chính, du lịch và xuất nhập khẩu.
II, Chính sách đầu tư quốc tế của Singapore giai đoạn từ 1991 đến nay
Mô hình chính sách thời kì này là: kết hợp giữa khuyến khích đầu tư ra
nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài.

Năm 1991, chính phủ đã đưa ra báo cáo “Chiến lược kinh tế” nhấn mạnh tính cấp
thiết của đầu tư ra nước ngoài.
 Các biện pháp thực hiện:
1, Tiếp tục thực hiện các biện pháp khuyến khích thu hút FDI:
Ưu đãi thuế cho trái phiếu; luật bảo mật thông tin ngân hàng; luật ủy thác
cho phép nhà đầu tư nước ngoài được lựa chọn người thừa hưởng tài sản sau khi
họ qua đời (nhằm thu hút khách hàng Trung Đông); người nước ngoài có thể định
cư mãi mãi ở Singapore miễn là họ có tài sản 13 triệu Đô la Mỹ, với ít nhất 3,1
triệu Đô la nằm tại một định chế tài chính ở đây. Singapore giờ đây đã được Ngân
hàng thế giới (WB) xếp vào danh mục địa điểm làm ăn kinh doanh dễ dàng nhất
với một hải cảng container lớn thứ hai thế giới và có tỷ lệ các tỷ phủ cao nhất thế
giới.Nhiều người cho rằng Singapore chính là nơi tạo cho họ nhiều cơ hội thăng
tiến. Chính phủ nước này đã hành động khôn ngoan khi đầu tư vào các ngành sản
xuất hàng xuất khẩu, xây dựng bến cảng container mới, thu hút các công ty nước
ngoài và phát triển ngành công nghệ cao như điện tử và dược phẩm. Sau khi mời
gọi được các nhà sản xuất dược phẩm như Pfizer Inc. và Novartis AG, Singapore
đã đầu tư hơn 400 triệu USD vào trung tâm nghiên cứu y sinh học, cắt giảm 9%
mức thuế doanh nghiệp xuống chỉ còn 17% so với 25% mà các công ty ở Malaysia
phải gánh chịu.
2, Thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư ra nước ngoài:
+Hỗ trợ vốn thông qua vốn tín dụng ưu đãi: chính phủ sẽ cung cấp một phần
tài chính đầu tư ra nước ngoài, mặt khác giúp các công ty này phát hành cổ phiếu
trên thị trường để huy động thêm vốn. với các xí nghiệp vừa và nhỏ được tài trợ
thông qua Quỹ hỗ trợ đầu tư nước ngoài.
+Miễn giảm thuế thu nhập công ty cho các công ty đầu tư ra nước ngoài:
chính phủ quy định tất cả các xí nghiệp đầu tư ra nước ngoài mà có được lợi nhuận
đều có thể xin miễn thuế, kể cả các xí nghiệp đầu tư vào các nước chưa có Hiệp
định bảo hộ với Singapore vẫn được quyền miễn thuế.
+Thành lập Câu lạc bộ đầu tư ra nước ngoài: hiện nay Singapore đã có 48
câu lạc bộ đầu tư hải ngoại cung cấp thông tin về các nước và khu vực có đầu tư

của Singapore, tìm kiếm đối tác mới, tư vấn đầu tư, chia sẻ kinh nghiệm, mở lớp
đào tạo, huấn luyện phục vụ cho việc đầu tư ra nước ngoài. Tháng 1/1993,
Singapore còn lập Ủy ban xúc tiến đầu tư ra nước ngoài. Nhiệm vụ của ủy ban này
là đánh giá khả năng đầu tư của các xí nghiệp và đệ trình lên chính phủ những kiến
nghị có tính khả thi.
Thị trường đầu tư: ban đầu chú trọng đầu tư vào Trung Quốc và các nước
ASEAN khác, sau đó mở rộng sang các nước khác trên thế giới.
Từ đầu thập kỉ 90 đến nay, Singapore đẩy mạnh xây dựng những khu mậu
dịch ở các nước ASEAN như Indonexia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan và đặc biệt
chú trọng tới hai nước trong khu vực là Trung Quốc và Ấn Độ. Châu Á là vị trí
hàng đầu cho các công ty Singapore đầu tư ở nước ngoài như đầu tư nước ngoài từ
khu vực doanh nghiệp của Singapore đã tăng 12,4% đạt 372 tỷ USD vào cuối năm
2005. Singapore đầu tư ở châu Á chủ yếu ở Trung Quốc, Malaysia, Indonesia và
Hồng Kông.
Đầu tư trực tiếp tại Trung Quốc tăng 14,7% đến 25 tỉ USD vào cuối năm
2005, chủ yếu trong sản xuất. Ở Trung Quốc, Singapore đã đầu tư hàng tỷ USD để
kinh doanh với những dự án khổng lồ như xây dựng các khu công nghiệp ở Tô
Châu, Sơn Đông, Tứ Xuyên. Trong đó ở Thượng Hải, Singapore đã liên kết với
các nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc xây dựng nhà ở tại khu phố Đông, là dự án
đầu tư lớn nhất của Singapore ở nước ngoài. Hiện tại, Trung Quốc cũng là nơi mà
Singapore bỏ tiền đầu tư ở nước ngoài nhiều nhất với tổng kim ngạch đến 50 tỉ
SGD tính đến cuối năm 2009.
Singapore cũng có những dự án đầu tư lớn tại Ấn Độ. Năm 1995, Singapore
và Ấn Độ đã kí Hiệp định xây dựng tại ngoại ô thành phố Bancara 1 khu kinh tế
cao cấp quốc tế với số lượng hàng năm khoảng 600 triệu USD. Bên cạnh đó,
Singapore còn nhiều dự án đầu tư khá lớn, xây dựng khách sạn, nhà hàng, nâng cấp
sân bay và các hang hàng không nội địa của Ấn Độ. Cơ quan thương mại hàng đầu
của Ấn Độ, Hiệp hội Các phòng Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ (FICCI) trong
một bản báo cáo gần đây cho biết đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) của Singapore
vào Ấn Độ vào năm 2008 đã tăng lên 11,69 tỷ RM (=Ringgit Malaysia, =3,3 tỷ

USD), cao hơn nhiều với mức 1 tỷ RM vào năm 2005.
Đầu tư vào Indonesia chủ yếu là trong các dịch vụ sản xuất, tài chính & bảo
hiểm và các thông tin & truyền thông.
Ngoài các nước châu Á, vốn đầu tư trực tiếp của Singapore đã lan tỏa ra các
nước khác ở Nam Thái Bình Dương, Bắc Mỹ và châu Âu. Bên cạnh châu Á, Nam
và Trung Mỹ và vùng Caribbean cũng chiếm hơn 25% của đầu tư trực tiếp của
Singapore. Đầu tư chính là vào các công ty cổ phần, chủ yếu về dịch vụ tài chính &
bảo hiểm. Các khu vực khác mà có đầu tư đáng kể từ các công ty Singapore đó là
châu Âu và Hoa Kỳ.
Riêng đối với VN, năm 1993 Singapore đã đầu tư 54 dự án với số vốn là 431
triệu USD dẫn đầu ASEAN và thứ 6 trong số các nước đầu tư vào VN. Năm 1994,
Singapore đã vươn lên thành nước thứ 4 đầu tư vào VN với tổng số vốn 1,24 tỷ
USD. Tháng 7/1997, Singapore trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại VN
với 156 dự án tổng số vốn 5 tỷ 130 triệu USD.
Đầu tư trực tiếp của Singapore vào Việt Nam liên tục tăng. Tính đến hết
tháng 12-2005, Singapore có 396 dự án tại Việt Nam với số vốn đăng ký 7,6 tỷ
USD, vốn đầu tư thực hiện đạt 3,45 tỷ USD. Vốn đầu tư của Singapore trải đều
trong các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam, tập trung nhiều vào lĩnh vực cơ sở hạ
tầng, dịch vụ và kinh doanh bất động sản. Theo Tổng cục
Thống kê, trong số 51 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư cấp mới
vào Việt Nam năm 2010, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với hơn 4,35 tỷ USD,
chiếm 25,2% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hà Lan 2,364 tỷ USD, chiếm
13,7%; Nhật Bản đứng thứ 3 với 2,040 tỷ USD, tiếp đó là Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Đài
Loan
III, Bài học cho Việt Nam
Việt Nam cần phải tích cực chủ động cải thiện môi trường đầu tư trong nước
để thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ cần có những biện pháp kịp
thời để khuyến khích đầu tư nước ngoài tạo điều kiện bổ sung vốn cho việc phát
triển đất nước như cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hiệu quả, hoàn
thiện hệ thống luật pháp phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời tạo điều kiện ưu

đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay ở Việt Nam thủ tục xét duyệt các dự
án đầu tư rất phức tạp và mất nhiều thời gian gây sút giảm ý muốn của nhà đẩu tư.
Hơn nữa các chính sách không được minh bạch rõ ràng dễ gây hiểu lầm trong khi
thực hiện.
Chính phủ cũng tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạn tầng và đào tạo
nguồn nhân lực. Cơ sở hạ tầng yếu kém là một trong những trở ngại lớn khi các
nhà đầu tư nước ngoài quyết định đầu tư vào Việt Nam. Chúng ta cần chú trọng
xây dựng các khu công nghiệp khu chế xuất đáp ứng được những yêu cầu của nhà
đầu tư, hoàn thiện hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, hệ thống sân bay,
cảng biển, kho trữ bến bãi… Đồng thời chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình
độ chuyên môn cao, tác phong làm việc chuyên nghiệp để có thể tăng tính hấp dẫn
với các nhà đầu tư.
Một vấn đề cần được quan tâm đó là việc phát triển các ngành công nghiệp
phụ trợ để đáp ứng nhu cầu của các ngành sản xuất trong nước mà không phải phụ
thuộc quá nhiều vào nước ngoài.
Chính phủ cũng cần có những biện pháp ưu đãi với các nhà đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam như cho phép họ chuyển lợi nhuận ra nước ngoài hay thuê lao
động chuyên môn từ nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc sinh
sống tại Việt Nam.
Hơn nữa chính phủ cũng cần chú trọng tới việc khuyến khích đầu tư ra nước
ngoài thông qua một số biện pháp như ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp có
vốn đầu tư ra nước ngoài, miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp đầu tue ra nước
ngoài, thành lập các tổ chức xúc tiến đầu tư nước ngoài cung cấp thông tin và giúp
các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường đầu tư hấp dẫn.

×