Phương pháp điều trị gãy
xương hàm
Một trong những cấp cứu mà các bệnh viện hiện nay gặp
ngày càng nhiều là gãy xương hàm. Đây thường là hậu quả
của các tai nạn giao thông. Từ khi mũ bảo hiểm được sử
dụng rộng rãi, tỉ lệ này đã giảm xuống. Dù vậy gãy xương
hàm cũng vẫn là những thách thức thực sự cho các đơn vị y
tế đặc biệt là nơi không có chuyên ngành răng hàm mặt.
Những di chứng lâu dài do điều trị không đúng cách không
chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ của người bệnh mà còn tác
động sâu sắc tới chức năng của "cửa ngõ" hệ tiêu hóa cơ
thể.
Thế nào là gãy xương hàm?
Người ta thường chia gãy xương hàm
làm hai loại: gãy xương hàm trên và
gãy xương hàm dưới. Trong gãy xương hàm dưới lại có gãy từng
phần: gãy xương ổ răng, vỡ lồi cầu, mỏm vẹt, bờ dưới xương
hàm dưới, xuyên thủng xương; gãy toàn bộ: một đường: gãy
vùng giữa, vùng bên, vùng góc hàm, cành lên, lồi cầu; hai đường:
gãy đối xứng, không đối xứng ; ba đường, phức tạp.
Các phương pháp điều trị hiện nay
Điều trị bằng chỉnh hình: Chỉnh hình trong miệng là kỹ thuật ra đời
sớm, được nhiều người ứng dụng và hiện nay vẫn là một
phương pháp thông dụng ở nhiều nơi. Kết quả điều trị cho những
Xương hàm bị vỡ.
trường hợp đường gãy đi qua vùng còn răng, di lệch ít. Nắn chỉnh
xương gãy: bằng tay hoặc bằng lực kéo. Cố định xương gãy: cố
định hai hàm bằng phương pháp trong miệng: buộc dây thép,
nẹp, cung cố định hàm, làm máng và phương pháp ngoài
miệng: băng cầm đầu, các khí cụ tựa vào sọ.
Điều trị phẫu thuật: Điều trị chỉnh hình không thực hiện được
trong một số trường hợp đặc biệt: ở bệnh nhân mất nhiều răng,
bệnh nhân có nhiều răng bị lung lay và bệnh nhân là trẻ em còn
nhiều răng sữa. Trong các trường hợp di lệch nhiều, có thể để lại
sự tiếp xúc hai đầu gãy không tốt thì phương pháp chỉnh hình sẽ
không đem lại kết quả như mong muốn. Vì vậy, cần thiết phải có
các chỉ định phẫu thuật cố định xương hàm, gồm hai phương
pháp:
- Phương pháp phẫu thuật cố định xương bằng chỉ thép: Phương
pháp điều trị này được áp dụng từ rất sớm (năm 1847) trong
ngành phẫu thuật chỉnh hình do Gordon Buck đề xuất. Sử dụng
kỹ thuật khâu kết hợp xương bằng chỉ thép để điều trị gãy xương
hàm dưới.
- Phẫu thuật cố định xương bằng nẹp vít: Cùng với sự phát triển
về khoa học kỹ thuật trên thế giới, nẹp vít cũng được các nhà
khoa học sáng chế thành nhiều loại khác nhau cả về kích thước,
kiểu dáng và chất liệu.
- Nẹp vít lớn tạo sức ép đầu gãy (Dynamic compression Plate).
- Loại vít tạo sức ép dọc trục (Axial dynamic compression Plate).
- Loại vít tạo sức ép lệch trục (Excentric compression Plate).
- Loại vít xuyên ép (Lag screw).
Nẹp vít nhỏ (mini plate) sử dụng trong điều trị gãy xương gồm hai
loại: tạo sức ép đầu gãy và không tạo sức ép đầu gãy.
Vị trí đặt nẹp (xem hình).
Các vị trí đặt nẹp theo vị trí gãy xương.
Nẹp vít được chế tạo bằng các chất liệu như vitallium, tantalium,
Zirconium là kim loại dung nạp được lâu trong cơ thể. Ngoài ra
còn có loại nẹp vít tự tiêu khi xương đã liền.
Nẹp cố định tự tiêu: Cấu tạo của các nẹp tự tiêu được tổng hợp
từ phản ứng polyme hóa các dẫn xuất cacbon từ thiên nhiên. Đây
là dạng vật liệu ưu việt nhất hiện nay dùng cho chấn thương
chỉnh hình, với các ưu điểm là không gây độc và không bị biến
dạng và ăn mòn, có tính tương thích sinh học cao, có độ bền cơ
học tốt.
Kỹ thuật nẹp kết hợp xương bằng nẹp tổ hợp cacbon cũng tương
tự các bước như với nẹp kim loại, nhưng không cần dùng dụng
cụ tạo nén ép các đoạn gãy, không phải dùng loại đinh ốc nén ép
(lagscrew) và không cần ghép xương bổ sung mà hiệu quả vẫn
cao.
Hiện nay ở Việt Nam cũng đã sản xuất được nẹp vít có cấu trúc
dạng cacbon này, đã đưa sản phẩm ra thị trường, điều trị an toàn
và hiệu quả hàng nghìn trường hợp phẫu thuật thay thế nẹp vít
bằng kim loại, giá thành rẻ, chất lượng ngang bằng các loại ngoại
nhập. Do đó, việc thay thế nẹp vít tự tiêu chắc chắn sẽ là lựa
chọn ưu tiên hàng đầu trong chuyên ngành chấn thương, chỉnh
hình.
Một số biến chứng của mổ kết hợp xương
Giảm hay mất cảm giác vùng do dây thần kinh ổ mắt chi phối.
Lõm mắt xảy ra cao trong các trường hợp gãy tầng mặt giữa, liên
quan đến tổn thương thành ổ mắt, gây tăng thể tích hốc mắt,
nhiễm khuẩn, xương không tiếp hợp tốt sau khi nắn chỉnh. Di lệch
khớp cắn khá phổ biến. Hội chứng khe ổ mắt trên và hội chứng
đỉnh ổ mắt . Song thị: Theo một số tác giả, song thị có thể tự hết
trong vài tuần đến 6 tháng.