Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Xấu máu vì dư mỡ ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.65 KB, 10 trang )

Xấu máu vì dư mỡ

Trong máu, phần lớn mỡ “lưu thông” dưới dạng triglyceride
và cholesterol. Với một nồng độ hợp lý, cholesterol là thành
phần rất quan trọng trong cơ thể, góp phần xây dựng màng
tế bào, tạo các nội tiết tố và là thành phần chính của muối
mật – chất giúp cơ thể hấp thu chất béo ăn vào. Tuy nhiên,
nếu cholesterol trong cơ thể nhiều hơn mức cần thiết, sẽ gây
ra những bệnh lý không mong muốn.
Dựa vào cấu trúc và chức năng, cũng
như từ các nghiên cứu, người ta phân
loại mỡ trong máu thành hai nhóm:
nhóm có lợi: HDL-cholesterol: giúp
giảm nguy cơ xơ vữa động mạch;
nhóm có hại: LDL- cholesterol, VLDL
cholesterol, cholesterol toàn phần và
triglyceride: làm tăng nguy cơ xơ vữa
động mạch.
Thế nào là rối loạn mỡ trong máu?

Rau, củ, quả, v
à trái cây
là nguồn cung cấp chất x
ơ
quan tr
ọng, giúp ổn định
m
ỡ trong máu. Ảnh:
truongthienan1801 (flickr)
Rối loạn mỡ trong máu, còn gọi là rối loạn lipid máu, là tình trạng
gia tăng các thành phần chất béo có hại hoặc giảm các thành


phần chất béo có lợi trong máu, hoặc cả hai. Bệnh ngày càng phổ
biến và là yếu tố nguy cơ thúc đẩy một số bệnh nguy hiểm: xơ
vữa động mạch, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, cao
huyết áp hoặc đái tháo đường. Nhiều nghiên cứu cho thấy mối
tương quan chặt chẽ giữa nồng độ cholesterol hoặc triglyceride
trong máu với bệnh lý tim mạch.
Nguyên nhân đa phần liên quan đến lối sống (hút thuốc lá, ít vận
động) và chế độ ăn (ăn nhiều chất béo có nguồn gốc động vật,
uống rượu bia…) cũng như một số bệnh lý (thừa cân, đái tháo
đường).
Chế độ ăn cho người rối loạn mỡ máu
Tổng năng lượng: Nên ăn vừa đủ nhu cầu. Với người béo phì,
việc giảm cân là rất cần thiết. Mức năng lượng trung bình của
một người bình thường khoảng 25 – 35kcal/kg/ngày, tuỳ mức vận
động.
Cholesterol có trong
máu đ
ến từ hai
nguồn
– Ngo
ại sinh: gần
1/3 lư
ợng
cholesterol lưu
hành trong cơ th

tr
ực tiếp đến từ
thức ăn h
àng ngày

như th
ịt động vật,
ch
ất béo có nguồn
g
ốc động vật: thịt
m
ỡ, sữa, phômai,
trứng, n
ội tạng
động vật.
– Nội sinh: 2/3 c
òn
lại đư
ợc sản xuất từ
gan. Cơ th
ể tổng
h
ợp từ những chất
dinh dư
ỡng khác
như ch
ất bột
đư
ờng, đạm, chất
béo có ngu
ồn gốc
thực vật Điều n
ày
giải thích vì sao m

ột
số ngư
ời ăn hạn
ch
ế chất béo, nội
Chất béo: Theo nhu cầu khuyến nghị cho
người Việt của bộ Y tế năm 2007, lượng
chất béo trong khẩu phần nên từ 15 – 20%.
Cần lưu ý chế độ ăn nhiều axít béo no (có
nhiều trong thịt mỡ, bơ động vật, nước luộc
thịt) hay axít béo thể trans (có nhiều trong
thịt mỡ, thức ăn nhanh) gây tăng lượng
cholesterol toàn phần, cholesterol xấu (LDL-
cholesterol) và giảm cholesterol có lợi (HL-cholesterol), làm tăng
nguy cơ rối loạn mỡ trong máu. Theo khuyến cáo gần đây, lượng
axít béo no trong khẩu phần nên dưới 10% tổng năng lượng; và
đối với người có nguy cơ bệnh tim mạch thì nên giảm dưới 7%
t
ạng động vật,
trứng , ho
ặc
những ngư
ời ăn
chay, ngư
ời không
béo phì v
ẫn có khả
năng r
ối loạn mỡ
máu.

tổng năng lượng, axít béo trans < 1%. Axít chất béo không no
(như omega3 hay omega6) lại giúp phòng ngừa rối loạn mỡ máu.
Cũng cần quan tâm lượng cholesterol trong thực phẩm: theo
khuyến cáo của bộ Y tế thì lượng cholesterol trong chế độ ăn
hàng ngày nên dưới 300mg ở người bình thường, dưới 200mg ở
người bị rối loạn mỡ máu và có nguy cơ bệnh tim mạch.
Các thực phẩm chứa nhiều cholesterol là trứng, sữa động vật, thịt
gia cầm (đặc biệt có màu đỏ) và nội tạng động vật.
Chất đường, tinh bột: Ăn quá nhiều tinh bột cũng có thể gây tăng
triglyceride. Theo khuyến cáo của bộ Y tế, trong cơ cấu khẩu
phần nên có 55 – 65% năng lượng từ tinh bột. Nên chọn các loại
tinh bột có chỉ số đường huyết thấp (khả năng làm tăng đường
huyết sau khi ăn) như gạo lứt, ngũ cốc nguyên hạt, sữa chua,
sữa tách béo). Thực phẩm có nhiều chất xơ, đặc biệt là chất xơ
hoà tan thường có chỉ số đường huyết thấp như: đậu nành, bông
cải, càrốt, khoai lang, khoai tây Nhu cầu khuyến nghị về chất xơ
cho một người trong khẩu phần ăn hàng ngày là 20 – 25g.
Chất đạm: Theo khuyến cáo của bộ Y tế, lượng đạm trong khẩu
phần ăn nên chiếm 12 – 18% tổng năng lượng và bao gồm cả
đạm động vật (thịt, cá trứng…) và đạm thực vật (họ đậu, gạo,
khoai…) Đạm thực vật, đặc biệt từ họ đậu (đậu nành) có hiệu quả
làm giảm nguy cơ của rối loạn mỡ máu.
Tóm lại, một chế độ ăn hợp lý và cân đối, một lối sống năng động
và lành mạnh, hạn chế các thói quen xấu sẽ giảm thiểu các yếu
tố nguy cơ ảnh hưởng đến việc chuyển hoá, tổng hợp các chất
béo trong máu dẫn đến rối loạn mỡ máu.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×