Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Điều trị thoái hóa khớp gối bằng chất nhờn pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.38 KB, 7 trang )

Điều trị thoái hóa khớp gối
bằng chất nhờn

Thoái hóa khớp gối là một vị trí thường gặp nhất của bệnh
thoái hóa khớp. Trong những đợt cấp của bệnh, có thể dùng
các thuốc chống viêm không steroid, thuốc giảm đau đơn
thuần, nhưng các thuốc này có nhiều tác dụng phụ trên
đường tiêu hóa như loét dạ dày, xuất huyết tiêu hóa. Một số
thuốc chống viêm không steroid như indometacin về lâu dài
lại có tác dụng có hại lên sụn khớp, làm trầm trọng thêm quá
trình thoái hoá khớp. Biện pháp cuối cùng là phải phẫu thuật
thay khớp giả, rất tốn kém. Để khắc phục những nhược điểm
này, hiện nay, biện pháp sử dụng chất nhờn (như acid
hyaluronic hay dẫn xuất của nó) đã được ứng dụng rộng rãi
vì tính an toàn và hiệu quả kéo dài.
Acid hyaluronic và thoái hóa khớp

Tiêm Acid hyaluronic vào
Bình thường khớp gối chứa khoảng
2ml dịch khớp. Acid hyaluronic là một
polysacharid có trong thành phần dịch khớp, với hàm lượng từ
2,5 - 4,0mg/ml. Nó bôi trơn mô mềm và phủ trên bề mặt sụn khớp
và được tổng hợp bởi tế bào sụn. Acid hyaluronic có nhiệm vụ
đệm giảm xóc, bôi trơn và bảo vệ khớp. Nó có các tính chất nhớt
và đàn hồi tùy thuộc vào lực tác động. Nếu lực tác động lên
mạnh, nó có tính chất đàn hồi, còn nếu lực tác động nhẹ thì nó
như là dầu bôi trơn. Khi khớp bị thoái hóa, số lượng acid
hyaluronic và chất lượng chất này trong dịch khớp bị giảm. Ở
bệnh nhân thoái hoá khớp gối, lượng acid hyaluronic chỉ còn một
nửa đến hai phần ba so với bình thường, do đó có hiện tượng
khớp.


dịch khớp giảm độ nhớt, mất khả năng bảo vệ sụn khớp, dẫn đến
tiến triển huỷ hoại khớp.

Tác dụng điều trị của Acid hyaluronic trong thoái hóa khớp

Sự bổ sung Acid hyaluronic trong thoái hoá khớp dẫn đến tăng
kéo dài nồng độ và trọng lượng phân tử của Acid hyaluronic nội
sinh, làm cải thiện đáng kể chức năng khớp, giảm đau và tác
dụng này có thể kéo dài hàng tháng. Thuốc có tác dụng giảm đau
do khi tiêm vào trong khớp, nó làm giảm sản sinh các hóa chất
gây viêm trong dịch khớp (PE G2, bradykinin), ức chế cảm thụ
đau ở bệnh nhân thoái hoá khớp. Acid hyaluronic có tác dụng
kháng viêm do ngăn chặn tác dụng của cytokyne và ngăn chặn
sinh tổng hợp PGE2. Tuy chỉ lưu trong dịch khớp 7 ngày nhưng
duy trì tác dụng trong 6 tháng do kích thích sản xuất Acid
hyaluronic nội sinh. Các thử nghiệm trên lâm sàng đã chứng tỏ, ở
người thoái hoá khớp, việc bổ sung acid hyaluronic nội khớp có
tác dụng giảm đau tốt hơn giả dược. Thuốc đạt hiệu quả tương
tự khi tiêm corticoid nội khớp song tác dụng bền vững hơn. Trong
thí nghiệm trên động vật, tiêm Acid hyaluronic còn có tác dụng
bảo vệ và sửa chữa lại các tế bào sụn. Acid hyaluronic ức chế
thoái hoá sụn khớp do gia tăng hoạt tính của men TIMP (tisue
inhibitor metalloprotease), kết khối các proteoglycan và tăng sinh
tổng hợp của tế bào sụn khớp. Thuốc có hiệu quả tác dụng rõ rệt
đối với bệnh nhân thoái hoá khớp trên nhiều mặt, đặc biệt là cải
thiện chức năng khớp.

Những trường hợp thoái hoá khớp nào được sử dụng Acid
hyaluronic?


Liệu pháp tiêm sodium hyaluronate vào khớp gối có tác dụng
trong điều trị thoái hoá khớp gối từ mức độ từ trung bình đến
nặng vừa. Nó có ích lợi đặc biệt đối với những bệnh nhân không
đáp ứng với điều trị thông thường, không dung nạp được thuốc
đặc biệt là thuốc chống viêm không steroid, cũng như giúp trì
hoãn thời gian thực hiện phẫu thuật thay khớp vốn khó khăn và
tốn kém. Có nhiều loại thuốc chứa Acid hyaluronic. Thường là
hộp 5 ống chứa 2- 2,5ml Acid hyaluronic, Acid hyaluronic tiêm nội
khớp gối 1 ống/tuần trong 5 tuần liên tục. Khi tiêm nội khớp Acid
hyaluronic cần đảm bảo vô khuẩn khi tiến hành thủ thuật. Khi đã
bóc hộp bơm tiêm ra rồi phải tiêm ngay. Nếu khớp có dịch phải
hút ra rồi mới tiêm. Thuốc chỉ có hiệu quả khi tiêm hết 3 lần
(synvic) hoặc 5 tuần (hyalgan). Thuốc có độ dung nạp khá tốt.
Trong một số ít trường hợp chỉ gặp đau nơi tiêm, phản ứng viêm
tại chỗ, đau cơ, đau khớp, cảm giác mệt mỏi. Các triệu chứng
này chỉ thoáng qua, sau 2-3 ngày là biến mất và thường chỉ gặp
trong lần tiêm đầu tiên.

×