Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Mối nguy hiểm do nhiễm giun đũa pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.01 KB, 10 trang )

Mối nguy hiểm do nhiễm giun đũa

Sau lũ lụt, các bệnh do ký sinh trùng, vi khuẩn, virut
gia tăng. Một trong những bệnh dễ mắc là bệnh giun
đũa. Giun đũa (ascaris lumbricoides) là loại ký sinh
trùng đường ruột phổ biến nhất, trên thế giới có
khoảng 1 tỷ người nhiễm giun đũa. Tỷ lệ nhiễm bệnh
cao ở những nơi kém vệ sinh hoặc dùng phân người
bón cây. Nhiễm giun đũa nặng thường gặp ở trẻ em,
làm trẻ chậm lớn.
Chu trình gây bệnh của giun đũa
Giun đũa sống ở đoạn trên của ruột.
Sau khi thụ tinh, giun cái đẻ ra một
lượng trứng lớn, theo phân thải ra
ngoài. Bệnh không lây trực tiếp từ
người sang người, do trứng phải lưu lại trong đất khoảng
2 - 3 tuần mới có khả năng gây bệnh. Trứng giun đũa có
thể tồn tại nhiều năm. Người bị nhiễm bệnh khi ăn phải
trứng giun có trong thức ăn và nước uống. Trong ruột
non, trứng nở ra các ấu trùng chuyển động, xâm nhập

Vòng phát triển
gây bệnh của
giun đũa.
thành ruột non và di chuyển tới tim phải qua các tiểu tĩnh
mạch mạc treo và mạch bạch huyết mạc treo. Từ tim, các
ấu trùng đi vào phổi, chui qua thành phế nang và di trú
ngược theo hệ thống phế quản lên họng, xuống thực quản
và vào lại ruột non. Giun trưởng thành có kích thước 20 -
40cmx3 - 6mm, sống được trên 1 năm. Trứng bắt đầu
được sản sinh sau 60 - 75 ngày kể từ khi ăn phải trứng


gây bệnh.
Làm sao biết người bị nhiễm giun đũa?
Các ấu trùng giun đũa có khả năng kích thích dị ứng trong
phổi gây tổn thương mao mạch và phế nang, làm cho
bệnh nhân bị sốt nhẹ, ho khan, đờm lẫn máu, thở khò khè,
khó thở và đau sau xương ức. Một số bệnh nhân có nổi
mẩn ngoài da và nghe thấy ran trong phổi. Có khi ấu trùng
di trú lạc vào não, thận, mắt, tuỷ sống gây các triệu
chứng liên quan đến các cơ quan này. Với số lượng nhỏ
giun trưởng thành trong ruột thường không gây triệu
chứng. Nhưng khi nhiễm giun nặng, có các triệu chứng
kiểu loét dạ dày tá tràng hoặc cảm giác khó chịu trước
hoặc sau bữa ăn ở bụng. Người nhiễm giun có thể khạc
hay nôn ra giun qua mũi, miệng. Nhiều khi giun chui vào
ống mật chủ, ống tuỵ, ruột thừa, túi thừa của ruột và các
chỗ khác, gây viêm đường mật, viêm túi mật, áp-xe gan
do vi khuẩn, viêm tuỵ hoặc hoàng đản tắc mật. Trường
hợp nhiễm giun rất nặng, các búi giun có thể gây tắc ruột,
xoắn ruột, lồng ruột. Nếu bệnh nhân bị bệnh thương hàn,
giun có thể xuyên thủng thành ruột bị mỏng. Nhiễm giun
vừa phải đến nặng làm cho trẻ em bị chậm lớn. Vì vậy,
điều trị định kỳ bằng albendazol cho trẻ em có tác dụng
cải thiện sự phát triển cho trẻ.
Giai đoạn ấu trùng ở phổi bệnh nhân có ho thoảng qua,
khó thở, thở rít, nổi mẩn ngoài da, tăng bạch cầu ái toan
và thâm nhiễm phổi thoảng qua. Giai đoạn giun ở ruột:
bệnh nhân có cảm giác khó chịu không rõ ràng ở thượng
vị, đôi khi nôn, trướng bụng. Có thể thấy trứng giun trong
phân, giun chui ra hậu môn, mũi hoặc miệng.
Trong thời kỳ di trú của ấu trùng, chụp Xquang lồng ngực

có thể thấy các tổn thương xâm nhiễm lan toả, không rõ
nét. Nếu tắc ruột, chụp bụng không chuẩn bị cho thấy các
mức hơi và những hình của giun trong các quai ruột giãn,
siêu âm cũng có thể cho thấy hình ảnh ruột giãn và khối
giun. Giai đoạn nhiễm giun ở phổi, ấu trùng giun có thể
tìm thấy trong đờm. Giai đoạn nhiễm giun ở ruột, tìm thấy
trứng giun trong phân.
Điều trị và phòng bệnh
Có thể dùng một trong các thuốc sau để điều trị giun đũa:
albendazol, levamisol, pyrantel pamoat, mebendazol,
piperazin.
Nhiễm giun đũa, giun móc và giun tóc thường đi kèm với
nhau nên có thể điều trị đồng thời bằng albendazol,
mebendazol hoặc oxantel, pyrantel pamoat.
Bệnh nhân nhiễm giun mà cần phẫu thuật phải chú ý rằng
các thuốc gây mê có thể kích thích giun tăng vận động
nên bệnh nhân nhiễm giun cần được tẩy giun trước khi
làm phẫu thuật.
Trường hợp tắc ruột do giun hoặc giun chui ống mật, có
thể tránh phẫu thuật bằng cách hút dịch dạ dày qua ống
thông mũi, sau đó bơm liều thuốc tẩy giun qua ống. Nếu
giun chui ống mật, có thể lấy giun qua ống nội soi dưới
siêu âm và điều trị dung dịch albendazol hoặc piperazin
bơm vào ống mật chủ kết hợp với điều trị toàn thân cũng
có tác dụng.
Cách phòng bệnh giun đũa tốt nhất là không ăn rau sống,
không uống nước lã. Không nên dùng phân tươi bón
ruộng hay bón cho cây trồng, nhất là rau xanh. Xử lý tốt
phân, nước rác. Thực hiện rửa tay xà phòng trước khi ăn
uống. Không để móng tay dài dễ dính, bám đất cát và lây

nhiễm trứng giun.

×