Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Giáo trình-Luật tài chính 1-chương 5 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.21 KB, 32 trang )


1
CHƯƠNG V
PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

I. KHÁI NIỆM CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ CƠ CẤU CHI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm chi ngân sách nhà nước:
Chi ngân sách nhà nước thể hiện chức năng phân phối tài chính ở
khâu ngân sách nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước là hoạt động của Nhà
nước nhằm mục đích phân tích và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước theo
dự toán ngân sách Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quyết định. Có thể nói, đó chính là quá trình phân phối và sử dụng vốn
ngân sách nhà nước. Do vậy, thực hiện các khoản chi ngân sách nhà
nước luôn gắn liền với các quan hệ tiền tệ trong phân phối và sử dụng
quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước là quỹ ngân sách nhà nước.
Về phương diện vật chất, các khoản chi ngân sách nhà nước bao
gồm toàn bộ số tiền từ ngân quỹ mà nhà nước sử dụng để đảm bảo cho
chức năng, nhiệm vụ của mình. Về phương diện kinh tế, chi ngân sách
nhà nước là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân
phối, sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước phải thực hiện. Do vậy, các khoản
chi ngân sách nhà nước có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh
tế-xã hội của một quốc gia.
Chi ngân sách nhà nước có những đặc điểm sau đây
1
:
-Chi ngân sách nhà nước gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ.

1


Dương Thị Bình Minh, Vũ Thị Minh Hằng, Sử Đình Thành, Nguyễn Tiến Hùng, Luật Tài chính, NXB Giáo dục
1996, tr93

2
-Cơ cấu, nội dung và mức độ dành cho các khoản chi ngân sách
nhà nước do cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước là Quốc Hội quyết
định.
-Chi ngân sách nhà nước phải mang tính hiệu quả cao. Tính hiệu
quả của hoạt động chi ngân sách nhà nước phải được đánh giá ở tầm vĩ
mô.
-Chi ngân sách nhà nước là hình thức cấp phát trực tiếp của nhà
nước vào các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Chi ngân
sách nhà nước là hình thức cấp phát không hoàn lại.
2 Cơ cấu các khoản chi ngân sách nhà nước:
2.1 Chi đầu tư phát triển:
Việc phân biệt chi đầu tư phát triển trong cơ cấu các khoản chi
ngân sách nhà nước là căn cứ vào mục đích kinh tế-xã hội của việc sử
dụng các khoản chi ngân sách nhà nước. Theo đó, các khoản chi ngân
sách nhà nước được phân biệt thành 2 nhóm lớn: chi đầu tư phát triển và
chi thường xuyên. Trong đó, chi đầu tư phát triển mang tính chất của
khoản chi tích luỹ. Chi thường xuyên còn được hiểu là chi có tính chất
tiêu dùng.
Chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi đầu tư phát triển bao
gồm những khoản chi phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng, gắn
liền với việc xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng kinh tế. Có thể nói, chi
đầu tư phát triển là khoản chi tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, nhằm phát
triển năng lực sản xuất, tăng tích luỹ tài sản của nền kinh tế quốc dân.
Việc nhà nước thực hiện chi đầu tư phát triển chính là việc ngân sách
nhà nước bỏ vốn vào các hoạt động kinh tế xã hội để hướng đến những
lợi ích kinh tế xã hội lớn hơn trong tương lai. Đây là những khoản chi

chiếm tỷ trọng lớn nhưng ít phát sinh lợi ích ngay lập tức. Điều này làm

3
cho các khoản chi đầu tư phát triển ít thu hút tư nhân tham gia đầu tư.
Chính vì vậy mà vai trò của nhà nước rất quan trọng trong việc thực hiện
các khoản chi này. Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng, chi đầu tư phát
triển thường có những khoản chi lớn hay được kể đến là:
-Chi đầu tư xây dựng cơ bản. Khoản chi này được ngân sách nhà
nước dùng để chi cho việc đầu tư, xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng kinh tế xã hội mà không có khả năng thu hồi vốn. Khoản chi này
nhằm đảm bảo các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội.
-Chi đầu tư, hỗ trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,
lĩnh vực quan trọng mà cần thiết phải có sự tham gia của nhà nước Nhà
nước. Những khoản chi này góp phần quan trọng để nhà nước thực hiện
vai trò định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế xã hội theo đúng
múc tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ.
-Chi dự trữ Nhà nước là khoản chi để mua hàng hoá, vật tư dự trữ
nhà nước có tính chiến lược của quốc gia hoặc hàng hoá, vật tư dự trữ
mang tính chuyên ngành.
-Chi đầu tư phát triển thuộc các chương trình, mục tiêu quốc gia,
dự án nhà nước chẳng hạn như cho chương trình mục tiêu quốc gia về
xoá đói giảm nghèo, chương trình nước sạch nông thôn, phủ xanh đồi
trọc…
Chi đầu tư phát triển có những đặc điểm như sau:
-Chi đầu tư phát triển là khoản chi lớn như không có tính ổn định
do thứ tự và tỉ trọng ưu tiên trong chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà
nước cho từng nội dung chi, từng lĩnh vực kinh tế xã hội ở mỗi giai đoạn
là khác nhau.


4
-Phạm vi và mức độ chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước
luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội của đất nước trong từng thời kỳ.
2.2 Chi thường xuyên:
So với nhóm các khoản chi có tính chất tích lũy hay còn gọi là chi
đầu tư phát triển, nhóm các khoản chi có tính chất tiêu dùng đa dạng và
phức tạp hơn. Chi thường xuyên của ngân sách nhà nước thể hiện quá
trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ ngân sách nhà nước để đáp ứng cho
các nhu cầu gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của bộ máy
nhà nước. Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm chi chủ yếu được xác
định:
- Chi cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng: bao
gồm chi quản lý hành chính của các cơ quan Nhà nước ở các cấp. Nhà
nước ngày càng có xu hướng giảm thiểu đến mức tối đa có thể được các
khoản chi năm trong nhóm này, nhằm mục đích tăng thu và tiết kiệm chi
cho ngân sách nhà nước, tiến đến tinh gọn bộ máy quản lý hành chính
nhà nước các cấp sao cho hiệu suất làm việc đạt mức cao nhất.
- Chi cho các hoạt động sự nghiệp: Bao gồm chi cho các hoạt động
kinh tế, giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học, đào tạo, văn hóa, thông tin,
thể dục thể thao, trợ cấp chính sách xã hội và bảo hiểm xã hội… Chi hỗ
trợ cho hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội, chính trị xã hội nghề
nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp Đây là nhóm chi chiếm tỷ trọng khá
lớn trong tổng số chi có tính chất tiêu dùng của ngân sách Nhà nước.
- Chi cho quốc phòng và an ninh: Là khoản chi hết sức cần thiết
của quốc gia, nhăm bảo đảm điều kiện vật chất cho sự nghiệp quốc
phòng, an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.

5
- Chi khác: bao gồm chi trợ giá theo chính sách của nhà nước,

phần chi thường xuyên trong các chương trình, mục tiêu quốc gia.
Chi thường xuyên có đặc điểm sau:
-Những khoản chi thường xuyên có tính chất ổn định, bởi vì, có
nhiều chức năng của nhà nước là không thay đổi như chức năng bảo vệ
công dân, chức năng quản lý kinh tế. Mặt khác, nhà nước luôn phải đảm
bảo những khoản chi mang tính chất ổn định mà không phụ thuộc vào
tình hình kinh tế xã hội thay đổi, chẳng hạn như khoản chi lương của
công chức, viên chức.
-Các khoản chi thường xuyên có hiệu lực tác động trong thời gian
ngắn và mang tính tiêu dùng xã hội. Chi thường xuyên chủ yếu đáp ứng
cho các nhu cầu chi để thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước về quản lý
kinh tế xã hội trong từng năm ngân sách. Đây là khoản chi chủ yếu
nhằm trang trải cho các nhu cầu về quản lý hành chính nhà nước, quốc
phòng an ninh, các hoạt động sự nghiệp
-Phạm vi, mức độ chi thường xuyên của ngân sách nhà nước gắn
liền với cơ cấu tổ chức của bộ máy nhà nước và sự lựa chọn của nhà
nước trong việc cung ứng các hàng hoá công cộng. Một quốc gia với cơ
cấu tổ chức bộ máy nhà nước càng gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả thì
khoản chi thường xuyên càng được tiết kiệm và ngược lại.
-Chi thường xuyên cần được quản lý theo dự toán và được sử dụng
theo nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả. Trong quá trình phân bổ và lập kế
họach chi để đưa vào trong dự toán phải luôn tính toán sao cho chi phí ít
nhất nhưng vẫn đạt hiệu quả tốt nhất Những khoản chi thường xuyên
một khi đã được ghi nhận vào dự toán và được cơ quan quyền lực nhà
nước thông qua sẽ được xem là chỉ tiêu pháp lệnh. Các đơn vị quản lý tài
chính và chủ thể thụ hưởng ngân sách nhà nước có nghĩa vụ chấp hành

6
tuyệt đối. Yêu cầu này nhằm hướng đến việc đảm bảo mục tiêu cân đối
ngân sách nhà nước.

Bên cạnh đó, chi ngân sách nhà nước còn bao gồm chi trả gốc, lãi
tiền huy động cho đầu tư, chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính và chi bổ
sung cho ngân sách nhà nước cấp dưới.
2.3 Chi trả gốc, lãi tiền huy động cho đầu tư:
Khoản nợ gốc thực chất đó là số tiền nhà nước đã vay của các chủ
nợ trong và ngoài nước đến hạn phải thanh toán. Chi trả nợ bao gồm:
-Trả nợ trong nước: đây là những khoản nợ mà nhà nước đã vay
của các tầng lớp dân cư, đoàn thể xã hội, tổ chức thông qua hình thức
phát hành giấy tờ có giá (trái phiếu, công trái…). Ở đây, Chính phủ là
chủ thể đứng ra vay và phải đảm bảo thanh toán đầy đủ, đúng hạn cả
gốc, lãi cho người chủ sở hữu công trái, trái phiếu của Chính phủ. Việc
thanh toán chi trả sẽ đựoc thực hiện tại kho bạc nhà nước. Nguồn vốn
thanh toán sẽ do ngân sách nhà nước đảm nhận. Cụ thể là, ngân sách nhà
nước ở trung ương có trách nhiệm chi trả các loại giấy tờ có giá phát
hành phục vụ cho các công trình trung ương. Hàng năm, Bộ Tài chính có
trách nhiệm lập kế hoạch thanh toán trái phiếu trình Chính phủ phê
duyệt và đưa vào dự toán ngân sách nhà nước. Căn cứ vào kế hoạch
được duyệt, cơ quan tài chính chuẩn bị nguồn vốn để kho bạc nhà nước
thanh toán trái phiếu, công trái đến hạn. Trường hợp công trái, trái phiếu
đã đến hạn thanh toán mà chủ sở hữu chưa đến thanh toán thì trái phiếu,
công trái đó sẽ được bảo lưu cả gốc lẫn lãi trong thời gian phát hành và
được hưởng lãi suất ngang bằng lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002, ngân sách địa
phương cũng có thể được bổ sung bằng nguồn vốn thu đựoc từ việc phát
hành trái phiếu chính quyền địa phương. Về nguyên tắc, ngân sách địa
phương được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu.

7
Trường hợp ngân sách cấp tỉnh có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình
kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh, thuộc danh mục đầu

tư trong kế hoạch 5 năm đã được hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định
nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán thì
ngân sách cấp tỉnh đó được phép huy động vốn trong nước bằng việc
phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Việc huy động vốn bằng
hình thức này phải tuân thủ yêu cầu cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng
năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức tổng dư nợ từ nguồn vốn
huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước
hàng năm của ngân sách cấp tỉnh.
-Trả nợ nước ngoài: đây là những khoản nợ nước ngoài mà nhà
nước đã vay của chính phủ các nước, các doanh nghiệp hoặc các tổ chức
tài chính tiền tệ quốc tế. Chính phủ sẽ lập kế hoạch trả nợ theo hàng năm
và kế hoạch trả nợ 5 năm. Hàng năm, Bộ Tài chính có trách nhiệm lập
kế hoạch tổng hạn mức trả nợ nước ngoài của Chính phủ trình lên cho
Chính phủ duyệt. Thủ tướng Chính phủ sẽ uỷ quyền cho Bộ Tài chính
thay mặt Chính phủ theo hạn mức được duyệt. Nguồn vốn để thanh toán
nợ nước ngoài do ngân sách trung ương đảm nhận. Bộ Tài chính chịu
trách nhiệm bố trí nguồn vốn hàng năm theo kế hoạch được duyệt để trả
nợ nước ngoài khi đến hạn. Việc trả nợ theo kế hoạch có thể được tiến
hành theo phương thức trả nợ thông qua hàng hoá hoặc bằng tiền.
Theo xu hướng đổi mới chính sách tài chính quốc gia, quan điểm
mới về cân đối ngân sách và bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Các
khoản vay trong nước, nước ngoài của Chính phủ đều phải được thực
hiện cho mục đích đầu tư và phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế.
Đối với vốn vay để đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, ngân sách nhà
nước tiến hành cấp phát vốn và thực hiện thu hồi vốn thông qua tu phí,
giá dịch vụ. Đồng thời, nhà nước sẽ là chủ thể trực tiếp trả nợ. Đối với

8
vốn cho vay mục đích đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, nhà
nước là người vay sau đó sẽ cho tổ chức kinh tế trong nước vay lại. Các

tổ chức này sau một thời gian nhất định và với một tỷ lệ lãi suất được
xác định trên thị trường vốn ở trong nước, phải hoàn trả số vốn vay cho
nhà nước để nhà nước thanh toán nợ cho chủ thể đã cho vay.
2.4 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính:
Quỹ dự trữ tài chính của quốc gia là khoản tích luỹ từ ngân sách
nhà nước, hình thành nên nguồn dự trữ chiến lược do nhà nước thống
nhất quản lý và sử dụng. Quỹ dự trữ quốc gia được sử dụng với 2 mục
đích:
-Nhằm tạm ứng cho ngân sách nhà nước trong trường hợp ngân
sách nhà nước cần thực hiện nhu cầu chi để đảm bảo nhiệm vụ, yêu cầu
kinh tế xã hội của quốc gia nhưng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
chưa tập trung kịp. Trường hợp quỹ dự trữ tài chính tạm ứng cho ngân
sách nhà nước thì ngân sách nhà nước phải hoàn trả trong năm ngân
sách.
-Nhằm xử lý cân đối ngân sách nhà nước. Việc sử dụng quỹ dự trữ
tài chính cho mục đích xử lý cân đối ngân sách được thể hiện trong các
trường hợp như: cần nguồn ngân sách nhà nước để phòng chống, khắc
phục hậu quả của thiên tai, tai nạn trên diện rộng, thực hiện các nhiệm
vụ quan trọng về quốc phòng an ninh, hoặc các nhiệm vụ cần thiết, cấp
bách khác phát sinh ngoài dự toán để tránh không làm ảnh hưởng, xáo
trộn đến sản xuất, đời sống xã hội. Ngoài ra, nếu nguồn thu ngân sách
nhà nước, kể cả từ vay nợ nhằm mục đích bù đắp bội chi cho ngân sách
nhà nước không đạt mức bội chi mà dự toán ngân sách nhà nước đã tiên
liệu theo quyết định của cơ quan quyền lực ở trung ương và địa phương,
trường hợp này quỹ dự trữ tài chính sẽ được sử dụng nhằm đảm bảo yêu
cầu cân đối ngân sách trong năm ngân sách.

9
Quỹ dự trữ quốc gia được hình thành từ ngân sách nhà nước, do cơ
quan quyền lực cao nhất (Quốc hội) quyết định. Quỹ dự trữ quốc gia

được quản lý chuyên trách bởi Cục dữ trự quốc gia-một cơ quan được tổ
chức theo hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương. Hàng năm, ngân
sách nhà nước sẽ bố trí những nguồn tăng thu từ ngân sách nhà nước,
thu kết dư và dự toán chi ngân sách nhà nước hàng năm (tối đa không
vượt quá 25% tổng dự toán chi) để bổ sung cho quỹ dự trữ tài chính.
Về thẩm quyền quyết định sử dụng quỹ dự trữ tài chính, Bộ trưởng
Bộ Tài chính hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định đối
với việc tạm ứng cho ngân sách nhà nước từ quỹ dự trữ tài chính.
Trường hợp xử lý cân đối ngân sách, đối với quỹ dự trữ tài chính ở trung
ương, Thủ tướng Chính phủ sẽ có thẩm quyền quyết định. Đối với quỹ
dự trữ tài chính ở địa phương sẽ do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định. Nếu không xét đến trường hợp tạm ứng từ quỹ dự trữ tài chính
phải được hoàn trả ngay trong năn ngân sách, việc sử dụng quỹ dự trữ tài
chính cho các mục đích khác cần phải đảm bảo yêu không bảo toàn số
dư của quỹ dự trữ tài chính. Theo đó, không được sử dụng vượt quá 30%
số dư của Quỹ dự trữ tài chính tại thời điểm bắt đầu năm ngân sách.
Ngoài ra, quỹ dự trữ tài chính phân biệt với quỹ dự phòng ngân
sách-một khoản chi được bố trí từ nội dung chi đầu tư phát triển.
2.5 Chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới:
Mục đích của khoản chi này nhằm đảm bảo tính công bằng, yêu
cầu phát triển cân đối giữa các vùng địa phương. Luật Ngân sách nhà
nước 2002 đã có sự mở rộng hơn so với trước đây. Trước khi Luật Ngân
sách nhà nước 2002 có hiệu lực, ngân sách cấp trên chỉ được phép bổ
sung cho ngân sách nhà nước cấp dưới để đảm bảo yêu cầu cân đối thu
chi cho cấp ngân sách được thụ hưởng. Hình thức cho bổ sung này đựơc
gọi là cho bổ sung để cân đối ngân sách và thể hiện tính chất tài trợ vô

10
điều kiện. Hiện nay, loại hình chi bổ sung cân đối thu, chi này vẫn được
duy trì nhằm tạo đìêu kiện cho chính quyền cấp dưới cân đối nguồn ngân

sách để hoàn thành nhiệm vụ kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh được
giao. Ngoài ra, pháp luật ngân sách nhà nước hiện hành còn cho phép
ngân sách cấp trên chi bổ sung có mục tiêu cho ngân sách cấp dưới để
hỗ trợ một phần cho những cấp ngân sách có khó khăn khi phát sinh các
nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết mà sau khi đã tận dụng mọi khả năng về
kinh phí của cấp mình chẳng hạn như đã sử dụng nguồn quỹ dự phòng,
quỹ dự trữ tài chính mà vẫn chưa đáp ứng được.
2
Hình thức chi bổ sung
có mục tiêu mang bản chất của những khoản tài trợ bất đối ứng.
II. PHÁP LUẬT VỀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
1. Khái niệm:
Tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động chi ngân
sách nhà nước giữa các chủ thể tạo thành pháp luật về chi ngân sách nhà
nước. Như vậy, pháp luật về chi ngân sách Nhà nước là tập hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
Nhà nước phân phối và sử dụng quỹ ngân sách Nhà nước.
Đặc điểm quan trọng của quan hệ pháp luật chi ngân sách Nhà
nước là Nhà nước luôn luôn là một bên chủ thể. Còn các chủ thể khác có
thể là pháp nhận hoặc thể nhân thụ hưởng vốn ngân sách Nhà nước.
Căn cứ vào nội dung điều chỉnh, các quy phạm pháp luật về chi
ngân sách Nhà nước, có thể phân ra các bộ phận sau:
+ Các quy phậm pháp luật quy định những vấn đề cơ bản về hoạt
động chi ngân sách Nhà nước như các nguyên tắc, điều kiện, phương
thức chi ngân sách Nhà nước.

2
Xem điểm 4 Mục II Thông tư 59/2003/TT-BTC 23-6-03 Hướng dẫn thực hiện Nghị định 60/ NĐ-CP 06-06-2003
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách Nhà nước.


11
+ Các quy phạm pháp luật quy định nội dung pháp lý các khoản
chi ngân sách Nhà nước. Bộ phận quy phạm pháp luật này thường được
gọi là chế độ pháp lý các khoản chi ngân sách Nhà nước.
+ Các quy phạm pháp luật quy định về tổ chức quản lý, phân phối
các khoản chi ngân sách Nhà nước.
2. Các nguyên tắc, điều kiện, phương thức chi ngân sách nhà nước
2.1. Các nguyên tắc và điều kiện chi ngân sách Nhà nước:
2.1.1. Các nguyên tắc chi ngân sách Nhà nước:
Hoạt động chi ngân sách Nhà nước là một mặt hoạt động của ngân
sách Nhà nước. Chính vì vậy chi ngân sách Nhà nước phải tuân thủ
nguyên tắc chung của quản lý ngân sách Nhà nước. Luật ngân sách Nhà
nước quy định: ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, có phân công trách nhiệm gắn
với quyền hạn, phân cấp quản lý giữa các ngành, các cấp. Trên cơ sở
nguyên tắc chung đó, các quy phạm pháp luật trong các văn bản pháp
luật quy định về chi ngân sách Nhà nước còn thể hiện những tư tưởng
mang tính chất chỉ đạo của Nhà nước đặt ra phương châm và mục đích
của hoạt động chi ngân sách Nhà nước. Các nguyên tắc đó bao gồm:
- Nguyên tắc cân bằng thu, chi.
- Nguyên tắc chi theo kế hoạch và đúng mục đích.
- Nguyên tắc tăng cường thu và tiết kiệm chi
2.1.1.1. Nguyên tắc cân bằng thu, chi:
Mối tương quan giữa hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước tác
động trực tiếp tới tình trạng ngân sách Nhà nước và toàn xã hội. Bởi vậy,
trong quản lý ngân sách Nhà nước, cân bằng giữa thu và chi ngân sách
Nhà nước là một trong những nguyên tắc quan trọng trong chi ngân sách

12
nhà nước. Nguyên tắc này cần phải được quán triệt trong toàn bộ quá

trình ngân sách, đặc biệt là khâu chấp hành ngân sách. Theo nguyên tắc
này, các khoản thu, chi thể hiện trong dự toán ngân sách nhà nước phải
đảm bảo tính cân đối. Các khoản chi chỉ được xây dựng trên cơ sở
nguồn thu đã được xác định. Ngược lại, các nguồn thu cho ngân sách
nhà nước sẽ nhằm đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu đã được hoạch định.
Ngân sách nhà nước sẽ được cân bằng theo cách xác định tổng số thu từ
thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên của ngân sách và
góp phần tích lũy ngày càng cao để phục vụ cho nhu cầu chi đầu tư phát
triển. Trường hợp ngân sách nhà nước bội chi, số bội chi phải nhỏ hơn
số chi đầu tư phát triển, tạo điều kiện tiến đến cân bằng ngân sách nhà
nước. Trên thực tế, đôi khi khả năng nguồn thu bị hạn chế và tăng chậm
trong khi các khoản chi lại tăng nhanh hơn nên tình trạng bội chi ngân
sách luôn có thể xảy ra. Để xử lý bội chi ngân sách nhà nước, một trong
những giải pháp là đi vay trong hoặc ngoài nước. Trong trường hợp này,
việc sử dụng nguồn vay để bù đắp bội chi chỉ nhằm mục đích đầu tư
phát triển nhằm đảm bảo khả năng chi trả nợ của nhà nước, mà tuyệt đối
không được sử dụng các khoản vay để thực hiện những khoản chi mang
tính chất tiêu dùng.
2.1.1.2. Nguyên tắc chi theo kế hoạch và đúng mục đích:
Tính kế hoạch của ngân sách Nhà nước đòi hỏi hoạt động thu, chi
ngân sách Nhà nước đều phảo dựa trên cơ sở kế hoạch. Sự thiếu ăn khớp
giữa thu, chi ngân sách Nhà nước đều tạo ra những khó khăn cho hoạt
động quản lý ngân sách Nhà nước và hạn chế hiệu quả trong thực tế. Do
đó, để bảo đảm sự ăn khớp giữa thu và chi ngân sách Nhà nước đòi hỏi
chúng phải được thực hiện theo kế hoạch.
Nguyên tắc này đòi hỏi các khoản chi ngân sách Nhà nước chỉ
được thực hiện với điều kiện khoản chi đó đã được ghi trong dự toán

13
ngân sách được duyệt, trừ các trường hợp đặc biệt do pháp luật quy

định. Mặc khác việc cấp phát và sử dụng vón ngân sách Nhà nước phải
đúng với đối tượng thụ hưởng, và đúng nội dung, mục đích của khoảng
chi được xác định trong dự toán ngân sách được duyệt.
2.1.1.3. Nguyên tắc tiết kiệm chi và tăng cường thu:
Trong cơ chế thị trường, việc nhà nước cắt bỏ một vài khoản chi
tiêu không đồng nghĩa với việc gánh nặng chi tiêu của ngân sách nhà
nước sẽ được giảm bớt. Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta nguồn
thu ngân sách Nhà nước hạn hẹp, nhu cầu chi tiêu rất lớn, chỉ có tiết
kiệm chi thì mới có thể đủ nguồn tài chính trang trải được các nhu cầu
cấp bách. Quá trình hoạch định chính sách, hình thành và thực hiện ngân
sách Nhà nước cũng không thể dự liệu trước được từ đầu năm. Thêm
vào đó, các thông tin để xây dựng kế hoạch ngân sách không đủ mức
chính xác cần thiết, nên mặc dù trong các dự toán ngân sách Nhà nước
hàng năm, người ta đã luôn bố trí một khoản dự phòng khoảng 2– 5%
tổng số dự toán chi ngân sách Nhà nước, nhưng số dự phòng trên cũng
không thể bảo đảm cho quá trình điều hành ngân sách Nhà nước. Vì vậy,
tiết kiệm chi và đẩy mạnh thu là một trong 3 nguyên tắc phải được quán
triệt ngay từ đầu khi bắt đầu một chu trình ngân sách.
Tiết kiệm chi không phải là đơn thuần cắt bỏ các khoản chi ngân
sách Nhà nước một cách tùy tiện, mà là chi tiêu đúng theo các định mức,
đúng tiêu chuẩn và đúng chế độ mà Nhà nước đã quy định cho từ đơn vị
sử dụng ngân sách, cơ quan có lập dự toán thu chi.
Tăng cường thu không chỉ đơn thuần tìm các giải pháp để thu ngay
vào quỹ ngân sách càng nhiều càng tốt, chống thất thu, mà ngay cả trong
bố trí chi ngân sách Nhà nước cũng phải thể hiện được việc nuôi dưỡng
chăm sóc nguồn thu.
2.1.2. Điều kiện thực hiện chi ngân sách Nhà nước:

14
Hoạt động chi ngân sách Nhà nước được thực hiện dựa trên các

nguyên tắc đồng thời để thực hiện chi ngân sách Nhà nước trong các
trường hợp cụ thể. Pháp luật quy định các điều kiện chi ngân sách Nhà
nước. Các điều kiện đó bao gồm:
Thứ nhất, khoản chi đã được xác định trong dự toán ngân sách
được duyệt. Điều kiện này không áp dụng trong trường hợp vào đầu năm
ngân sách dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách chưa được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quyết định cơ quan tài chính các cấp được
phép cấp kinh phí cho các nhu cầu chi không thể trì hoãn được cho tới
khi dự toán ngân sách và phân bổ ngân sách đượ quyết định.
Điều kiện này cũng không được áp dụng trong trường hợp có sự
thay đổi về thu, chi mà sự thay đổi đó được cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền chấp nhận và quyết định.
Thứ hai: Khoản chi đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền quy định.
Thứ ba: Khoản chi đã được cơ quan tài chính hoặc thủ trưởng đơn
vị sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền chuẩn chi.
Thứ tư: khoản chi được thực hiện trên cơ sở có đầy đủ các chứng
từ có liên quan.
Tùy theo tính chất từng khoản chi, pháp luật quy định cụ thể những
loại hồ sơ, chứng từ thanh toán bắt buộc phải có là điều kiện thực hiện
các khoản chi ngân sách Nhà nước.
Ngoài các điều kiện trên đây đối với những khoản chi cho công
việc cần phải đấu thầu thì việc chi ngân sách chỉ được thực hiện trên cơ
sở kết quả đấu thầu theo quy định của Chính phủ.
2. 2 Phương thức cấp phát ngân sách từ ngân sách Nhà nước:

15
Phương thức cấp phát tài chính từ ngân sách Nhà nước là cách
thức thực hiện phân phối vốn ngân sách Nhà nước cho các đơn vị thụ
hưởng theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở nguồn kinh phí đã được

phân bổ, kế hoạch sử dụng ngân sách đã được xây dựng và thông qua
theo trình tự, thủ tục luật định, đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước ra
quyết định chi, yêu cầu cơ quan kho bạc nhà nước chuyển giao kinh phí.
Hiện nay, ở nước ta việc cấp phát ngân sách từ ngân sách Nhà
nước được thực hiện theo hai phương thức chủ yếu là phương thức cấp
phát theo dự toán kinh phí và phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền.
Ngoài ra, các chủ thể có liên quan đến ngân sách nhà nước còn có thể
được cấp phát theo phương thức cấp phát trực tiếp, phương thức cấp
phát kinh phí ủy quyền và cấp phát gán thu bù chi, cấp phát ghi thu, ghi
chi.
Để thực hiện cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách Nhà
nước theo các phương thức thanh toán trên đây, pháp luật quy định hai
hình thức thanh toán là hình thức cấp tạm ứng và hình thức cấp phát
thanh toán là chủ yếu. Cấp tạm ứng là việc ngân sách nhà nước sẽ ứng
trước một số tiền cho đối tượng có nhu cầu sử dụng ngân sách khi đối
tượng này chưa có đủ điều kiện để nhận chính xác số tiền phục vụ cho
hoạt động xin tạm ứng. Trong trường hợp đơn vị sử dụng ngân sách có
nhu cầu thực tế, đơn vị này sẽ phát hành “Giấy đề nghị rút kinh phí (tạm
ứng)” cùng với bộ chứng từ có liên quan đến khoản xin tạm ứng gửi đến
kho bạc nhà nước. Mức tạm ứng tuỳ thuộc vào tính chất, tiến độ thực
hiện từng khoản chi nhưng không quá tổng số kinh phí đã được phân bổ
theo lệnh chi tiền. Kho bạc nhà nước sau khi kiểm tra hồ sơ hợp lệ sẽ
tiến hành tạm ứng. Đối với cấp phát kinh phí dưới hình thức thanh toán,
khi đảm bảo đủ điều kiện để được thanh toán từ ngân sách nhà nước,
đơn vị sử dụng ngân sách lập giấy đề nghị rút kinh phí cùng với các

16
chứng từ phù hợp gửi kho bạc đề nghị thanh toán. Các hình thức cấp
phát đều phải thực hiện thông qua hệ thống kho bạc nhà nước.
Trong các phương thức cấp phát, thù trưởng đơn vị sử dụng ngân

sách chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định sử dụng ngân sách nhà
nước của mình. Đồng thời, kho bạc nhà nước cũng có trách nhiệm trong
việc quản lý thanh toán các khoản ngân sách nhà nước được cấp phát.
2.2.1 Phương thức cấp phát theo dự toán kinh phí:
Đây là phương thức để cấp phát kinh phí thường xuyên cho các
đơn vị dự toán ngân sách nhà nước-vốn là những đối tượng thường
xuyên sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ
đuợc giao. Các đối tượng này bao gồm: các cơ quan hành chính nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp hoạt động dưới hình thức thu đủ, chi đủ hoặc
gán thu bù chi, các cơ quan Đảng, các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp được nhà nước đảm bảo kinh phí. Như vậy, cấp phát theo
dự toán kinh phí là phương thức áp dụng đối với các khoản chi mà cơ
quan tài chính không trực tiếp cấp phát. Trong đó, dự toán kinh phí được
hiểu là khả năng tối đa mà đơn vị thụ hưởng có thể nhận từ ngân sách
nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên của mình. Kinh phí
sử dụng thực tế của những đối tượng thụ hưởng không được phép vượt
quá giới hạn đã được phân bổ chi tiết theo từng hạng, mục, tháng, quý
được gọi là hạn mức cấp phát. Theo phương thức này, định kỳ hàng
tháng, hàng quý, cơ quan tài chính cấp hạn mức kinh phí vốn cho các cơ
quan, đơn vị thụ hưởng ngân sách nhà nước. Nếu phát sinh nhu cầu cần
thiết, cấp bách, đơn vị sử dụng ngân sách có thể yêu cầu kinh phí vượt
hơn dự toán kinh phí quý cho đơn vị nhưng không được vựơt quá dự
toán tổng thể.
Quyết định chi của đơn vị sử dụng ngân sách có hình thức là “Giấy
rút dự toán ngân sách nhà nước”. Khi có nhu cầu thực tế, căn cứ vào hạn

17
mức của từng hạn, mục chi, hạn mức chi định kỳ từng tháng, quý, đại
diện hợp pháp của đơn vị sử dụng ngân sách phát hành “Giấy rút dự toán
ngân sách nhà nước” cùng các chứng từ hợp pháp yêu cầu kho bạc quản

lý tài khoản thanh toán. Kho bạc sẽ thực hiện chi trả theo đúng mục chi
thực tế sau khi đã kiểm tra điều kiện theo quy định.
Phương thức này được áp dụng rộng rãi do các đơn vị dự toán
ngân sách nhà nước sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước để đáp ứng
các yêu cầu thường xuyên của đơn vị mình. Phương thức này cũng tạo
điều kiện cho kho bạc nhà nước chủ động kiểm soát chi ngân sách nhà
nước, chủ động sử dụng nguồn kinh phí với hiệu suất cao. Đồng thời,
kho bạc nhà nước cũng chịu trách nhiệm rất lớn khi thực hiện cấp phát
kinh phí theo dự toán. Cơ quan tài chính chỉ có trách nhiệm đôn đốc,
thông báo chính thức dự toán kinh phí trong kỳ áp dụng cho đơn vị sử
dụng ngân sách nhà nước. Ngoài ra, các đơn vị sử dụng kinh phí theo
phương thức cấp phát theo dự toán sẽ bị chi phối về tính chủ động trong
quá trình sử dụng kinh phí. Bên cạnh đó, những đơn vị này còn có thể
phát sinh hành vi tiêu cực như tận hưởng tối đa dự toán đã được phân
bổ, không tuân thủ nguyên tắc tăng cường thu, tiết kiệm chi.
2.2.2 Phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền:
Đây là phương thức được áp dụng đối với những khoản chi do cơ
quan tài chính cấp phát trực tiếp cho đơn vị sử dụng ngân sách. Phương
thức này chỉ được áp dụng đối với những chủ thể không có quan hệ
thường xuyên với ngân sách nhà nước chẳng hạn như các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế xã hội…Ngoài ra những khoản chi mang tính chất
đặc thù phát sinh từng lần chẳng hạn như các khoản giao dịch của Chính
phủ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài trong mối quan hệ vay nợ, viện
trợ, các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới
cũng được cấp phát theo phương thức thông qua lệnh chi tiền.

18
Lệnh chi tiền là quyết định do cơ quan tài chính phát hành đến kho
bạc nhà nước yêu cầu kho bạc chi trả, thanh toán một số tiền cho đơn vị
sử dụng ngân sách nhà nước theo đúng nội dung của lệnh chi. Nhận

được lệnh chi tiền hợp lệ, căn cứ vào yêu cầu của cơ quan tài chính thể
hiện trong lệnh chi tiền, kho bạc sẽ tiến hành xuất quỹ thanh toán cho
đơn vị sử dụng ngân sách bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản theo hình
thức: cấp tạm ứng hoặc cấp thanh toán. Khi nhận được kinh phí, cho dù
dưới hình thức tạm ứng hay thanh toán, đơn vị thụ hưởng ngân sách có
toàn quyền sử dụng nguồn kinh phí đã được chuyển giao một cách chủ
động.
Ngoài hai phương thức cấp phát chủ yếu là cấp phát kinh phí theo
dự toán và theo lệng chi tiền, ngân sách nhà nước còn có thể được cấp
phát theo một số hình thức khác như:
-Hình thức cấp phát ghi thu, ghi chi: Đây là phương thức thu, chi
tại chỗ, tại một thời điểm nhất định và giao cho đơn vị trực tiếp thực
hiện, sau đó sẽ có báo cáo quyết toán với ngân sách nhà nước.
-Hình thức cấp phát kinh phí ủy quyền: hình thức này áp dụng chủ
yếu khi cơ quan quản lý cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý cấp dưới
thực hiện nhiệm vụ thuộc chức năng của mình. Do vậy, kinh phí phải
được chuyển từ ngân sách cấp trên xuống cho ngân sách cấp dưới để
thực hiện nhiệm vụ chi thay cho ngân sách cấp trên. Sau khi thực hiện
xong, ngân sách cấp dưới có trách nhiệm quyết toán lại với ngân sách
cấp trên.
-Hình thức gán thu bù chi: hình thức này được áp dụng cho đơn vị
sự nghiệp có thu nhằm khuyến khích cơ chế hạch toán kinh tế, giảm bớt
gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Các đơn vị phải tự tạo nguồn thu để
đảm bảo chi tiêu, ngân sách nhà nước chỉ cấp phần chênh lệch thiếu.

19
Trường hợp hạch toán phát sinh nguồn chênh lệch thừa, đơn vị phải nộp
phần này vào ngân sách nhà nước.
III. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ CÁC KHOẢN CHI NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC:

1. Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển:
1.1. Khái niệm.
Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng là tập hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phân phối và sử dụng vốn ngân
sách Nhà nước cho nhu cầu đầu tư xây dựng theo kế hoạch của Nhà
nước.
1.2. Nội dung chế độ chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển:
1.2.1. Đối tượng chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển:
Vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước áp dụng cho các trường hợp
sau:
- Các dự án đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội, quốc phòng, an ninh mà không có khả năng thu hồi vốn.
- Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, góp
vốn cổ phần liên doanh và các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có
sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
- Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các quỹ hỗ trợ phát triển
đối với các chương trình mục tiêu quốc gia, dự án phát triển kinh tế.
-Chi cho dự trữ nhà nước.
Những khoản chi trên đều có đặc điểm là nhằm mục đích tạo ra lợi
nhuận dài lâu cho nền kinh tế, phục vụ cho nhu cầu đầu tư, phát triển đất
nước, thời hạn sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước lâu dài, cho nên,
việc quyết toán thường sẽ trải qua nhiều năm năm ngân sách.

20
Vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước dùng để đầu tư đối với các dự
án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo việc làm, các
dự án đầu tư quan trọng của Nhà nước trong từng thời kỳ và một số dự
án khác của các ngành có khả năng thu hồi vốn đã được xác định trong
cơ cấu kế hoạch của Nhà nước.
Như vậy, chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư xây dựng cơ bản

được sử dụng theo hai loại hình: một loại được cấp phát, còn một loại là
được cho vay với lãi suất ưu đãi.
Về nguyên tắc, theo quy định hiện hành các dự án được ngân sách
Nhà nước cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản là những dự án không có
khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Còn các dự án được cho vay ưu đãi là các
dự án có khả năng thu hồi vốn.
1.2.2. Trình tự chuyển giao vốn đầu tư phát triển từ ngân sách
Nhà nước:
Phù hợp với hai loại hình chi đầu tư xây dựng cơ bản, pháp luật
quy định hai loại trình tự chuyển giao vốn.
a. Đối với các đối tượng được ngân sách Nhà nước cấp phát vốn.
Hàng năm, căn cứ vào kế hoạch Nhà nước đã được duyệt. Bộ tài
chính sẽ thông báo cho các bộ, ngành, địa phương và hệ thống tổng cục
Đầu tư phát triển về việc cấp vốn, cơ quan quản lý ngân sách Nhà nước
sẽ chuyển tiền theo kế hoạch sang Tổng cục Đầu tư để thực hiện việc
cấp cụ thể.
Để nhận được vốn cấp phát, các chủ đầu tư phải mở tài khoản tại
các Cục hoặc Chi cục đầu tư phát triển nơi giao dịch và xuất trình các
văn bản cần thiết theo quy định của pháp luật.
Nói chung, nguyên tắc cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản của
ngân sách Nhà nước là cấp phát để thanh toán khối lượng hoàn thành

21
theo giá trị khối lượng được nghiệm thu hàng tháng. Nghĩa là đơn vị xây
lắp phải tự vay, bỏ vốn ra xây dựng theo hợp đồng với chủ đầu tư, sau
đó được chủ đầu tư thanh toán lại trên cơ sở khối lượng nghiệm thu. Đối
với các gói thầu tổ chức đấu thầu xây lắp được thực hiện tạm ứng vốn từ
10 – 20% kế hoạch vốn cả năm tùy theo quy mô và điều kiện cụ thể của
từng gói thầu.
Đối với việc mua sắm thiết bị, sẽ được tạm ứng vốn theo chế độ

quy định và trên cơ sở các điều kiện của hợp đồng giữa chủ đầu tư và tổ
chức cung ứng vật tư thiết bị, nhưng tối đa không vượt kế hoạch năm
được duyệt.
b. Đối với các công trình, dự án được sử dụng nguồn vốn vay ưu
đãi:
Khác với các dự án được ngân sách Nhà nước cấp phát, căn cứ vào
kế hoạch vốn tín dụng ưu đãi hàng năm, hàng quý được duyệt, cơ quan
quản lý ngân sách Nhà nước sẽ chuyển tiền sang Tổng cục đầu tư phát
triển để làm nguồn vốn cho vay. Căn cứ kế hoạch vốn hàng quý được Bộ
Tài chính duyệt. Tổng cục đầu tư phát triển sẽ thông báo cho cơ quan
cấp trên của chủ đầu tư để lập hạn mức vốn cho vay theo từng dự án gửi
Tổng cục Đầu tư phát triển. Căn cứ số vốn do ngân sách Nhà nước
Trung ương chuyển, Tổng cục đầu tư phát triển sẽ ra thông báo hạn mức
vốn được phép vay cho đối tượng được vay.
Các chủ đầu tư để rút được tiền phải ký hợp đồng tín dụng Nhà
nước với cơ quan cho vay vốn. Căn cứ hợp đồng tín dụng Nhà nước đã
ký, kế hoạch đầu tư cả năm được duyệt và hạn mức cho vay vốn được
thông báo, cơ quan cho vay theo chế độ tín dụng ưu đãi sẽ làm thủ tục để
cho chủ đầu tư rút vốn vay.
2. Chế độ cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.

22
2.1. Khái niệm.
Chế độ cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước là tập hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sử dụng vốn ngân sách Nhà
nước cấp cho doanh nghiệp Nhà nước để góp phần hình thành vốn lưu
động trong quá trình sản xuất.
2.2. Nội dung chế độ cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.
2.2.1. Đối tượng được xét cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà
nước.

Các đối tượng phải thỏa mãn các điều kiện sau mới được cấp vốn
lưu động từ ngân sách Nhà nước.
- Phải là đơn vị sản xuất ra của cải vật chất thực sự cho xã hội tức
không phải là đơn vị hoạt động kinh doanh dịch vụ là chủ yếu.
- Phải có quyết định thành lập của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Trường hợp doanh nghiệp thành lập lại hoặc đã hoạt động từ
trước 1989 sau khi sắp xếp lại, thì cũng phải có quyết định chính thức.
- Phải có công văn đề nghị của cơ quan quản lý cấp trên của doanh
nghiệp.
- Phải có biên bản thẩm định của Hội đồng quản trị xác định vốn
lưu động định mức cho doanh nghiệp, trong đó phải xác định cụ thể hiệu
quả của sản xuất kinh doanh.
2.2.2. Mức được cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp quốc doanh mới đưa vào hoạt động sản
xuất kinh doanh được duyệt cấp vốn, ngân sách sẽ cấp tối đa không quá
30% tổng số vốn lưu động đã được xác định.

23
Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động mà được duyệt cấp ngân
sách thì ngân sách Nhà nước cũng cấp tối đa không quá 30% tổng số
vốn đã được xác định lại.
2.2.3. Trình tự cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước.
Doanh nghiệp, tổ chức kinh tế giữ vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế-xã hội xin cấp vốn lưu động phải được Hội đồng xác định vốn
lưu động định mức xác định khả năng và nhu cầu vốn. Hội đồng gồm
các đại diện của cơ quan quản lý tài chính về vốn và tài sản cùng cấp, cơ
quan thuế, ngân hàng nơi doanh nghiệp mở tài khoản giao dịch chính, cơ
quan quản lý cấp trên trực tiếp của đơn vị.
Hồ sơ xin cấp vốn lưu động từ ngân sách Nhà nước phải được bảo
đảm chứng minh rõ ràng doanh nghiệp thỏa mãn các điều kiện xét cấp

như đã quy định. Căn cứ hồ sơ xét cấp, cơ quan tài chính quản lý doanh
nghiệp sẽ xem xét, đề nghị ghi vào kế hoạch ngân sách Nhà nước để cấp
vốn. Trên cơ sở kế hoạch ngân sách Nhà nước đã bố trí theo đề nghị của
cơ quan tài chính quản lý doanh nghiệp, cơ quan quản lý ngân sách sẽ
thực hiện lệnh cấp vốn lưu động cho đơn vị.
Sau khi được ngân sách Nhà nước cấp phát, đơn vị phải chủ động
phối hợp với cơ quan quản lý ngân sách doanh nghiệp làm các thủ tục
giao nhận và bảo tòan vốn.
3. Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế.
3.1. Khái niệm.
Chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế là tập hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ sử dụng vốn ngân sách Nhà
nước chi dùng cho các hoạt động nhằm phục vụ cho yêu cầu sản xuất
kinh doanh và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế và xã hội được
tiến hành thuận lợi.

24
Đặc điểm chung của chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp
kinh tế là không nhằm mục đích trực tiếp kinh doanh lấy lãi.
3.2. Nội dung chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp kinh tế.
Nguyên tắc chung của việc chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp
kinh tế là theo công việc, nhiệm vụ đã được bố trí trong kế hoạch. Đối
với chi cho duy trì bộ máy quản lý hành chính của đơn vị thực hiện hoạt
động sự nghiệp kinh tế tính được chủ yếu trong nguồn chi về quản lý
hành chính của ngân sách Nhà nước.
Do có nhiều loại hình đơn vị như có loại vừa thực hiện nhiệm vụ
quản lý hành chính vừa thực hiện luôn các nghiệp vụ chuyên môn, có
loại đơn vị để thực hiện nhiệm vụ được giao phải đi thuê các đơn vị
chuyên môn hạch toán riêng thực hiện công vệc… Nên việc cấp phát
vốn sự nghiệp kinh tế trong ngân sách Nhà nước thường căn cứ vào loại

hình đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này. Hiện nay, có hai loại chủ yếu
là:
Thứ nhất: Loại hình đơn vị được cấp phát vốn ngân sách Nhà nước
theo phương thức gán thu bù chi.
Thứ hai: Loại hình đơn vị được cấp vốn ngân sách Nhà nước theo
công việc.
Hiện nay theo chế độ phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước thì
nguồn vốn cấp cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế được phân làm hai
loại: Nguồn vốn của ngân sách Trung ương và nguồn vốn ngân sách của
địa phương.
Các hoạt động sự nghiệp kinh tế thuộc đối tượng cấp phát của ngân
sách Trung ương là các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các đơn vị Trung
ương quản lý thực hiện gồm:
- Công tác định canh, định cư các làng, bản người dân tộc tiểu số;

25
- Hỗ trợ đưa dân đi và đón dân đến vùng kinh tế mới;
- Công tác đo đạc, xây dựng lưới tọa độ địa chính các cấp và đo vẽ
bản đồ địa chính các tỷ lệ, công tác đo vẽ bản đồ quốc gia.
- Công tác điều tra cơ bản tài nguyên thiên nhiên.
- Hoạt động thường xuyên của các đơn vị không hạch toán kinh
doanh thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, thủy lợi do các Bộ, ngành,
Trung ương quản lý như: giống cây, con, nghiên cứu và bảo vệ động
thực vật, vườn ươm, trạm tưới, tiêu, bảo vệ đê điều; kiểm lâm nhân dân,
tu bổ rừng do Trung ương quản lý, các khoản chi cho phục vụ mục tiêu
khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm,…
- Duy tu, bảo dưỡng đường giao thông, cầu cống, nạo vét kênh
rạch, sông biển,… do các đơn vị Trung ương thực hiện.
- Bảo quản dự trữ hàng hóa quốc gia.
Ngân sách địa phương đảm nhiệm chi cho các hoạt động sự nghiệp

kinh tế do các đơn vị địa phương quản lý thực hiện gồm:
- Hoạt động của các trạm trại nông nghiệp địa phương (không phải
là hạch toán kinh tế) về giống cây, con bảo vệ thực vật, thú y…
- Hoạt động của các trạm, đơn vị thủy nông, thủy loại (cả đào đắp
kênh mương dẫn phụ, trạm tưới tiêu nước không phải là hạch toán kinh
doanh).
- Hoạt động về lâm nghiệp như: vườn ươm cây để trồng rừng, kiểm
lâm và bảo vệ rừng do địa phương quản lý.
- Hoạt động về đảm bảo quản lý, hướng dẫn, trợ giúp theo chế độ
đối với dân mới đến vùng kinh tế mới…
- Hoạt động về quản lý đất đai địa chính ở địa phương.

×