Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tài liệu về biến đổi khí hậu toàn cầu và các kịch bản biến đổi khí hậu cho Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.31 KB, 18 trang )

Tài liệu về biến đổi khí hậu toàn cầu và các kịch bản biến đổi khí hậu cho
Việt Nam.
I. MỞ ĐẦU
1 Biến đổi khí hậu là gì?
Hơn 30 năm trước James Lovelock nghiên cứu trong lĩnh vực nghiên cứu
trái đất và khả năng cân bằng tự nhiên môi trường duy trì và phát triển sự
sống. Ông gọi nó là GAIA và lý thuyết này nhanh chóng được thừa nhận.
James Lovelock nhận ra rằng con người đã đối xử tệ bạc với trái đất
(bằng cách khai thác tài nguyên và trả lại cho trái đất những điều có hại vượt
quá sự hập thụ của nó ) Chính những hành động đó đã hủy hoại môi trường
sống, hủy hại trái đất này.
Một trong những biểu hiện của sự hủy hoại đó là sự biến đổi khí hậu. Khí
hậu đã bị biến đổi và nó là nguyên nhân làm cho sự sống trên trái đất dần
mất đi sự cân bằng, hay ít nhất sự sống trên trái đất sẽ không bao giờ trở lại
trạng thái cân bằng tự nhiên như trước đây nữa.
"Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí
quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi
các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo". “Biến đổi khí hậu là “những ảnh
hưởng có hại của biến đổi khí hậu”, là những biến đổi trong môi trường vật
lý hoặc sinh học gây ra những ảnh hưởng có hại đáng kể đến thành phần,
khả năng phục hồi hoặc sinh sản của các hệ sinh thái tự nhiên và được quản
lý hoặc đến hoạt động của các hệ thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe
và phúc lợi của con người”.(Theo công ước chung của LHQ về biến đổi khí
hậu).
2 Nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu.
2.1 Nguyên nhân tự nhiên
- Do sự tương tác và vận động giữa trái đất và vũ trụ
- Những yếu tố không phải là khí hậu nhưng ảnh hưởng đến khí hậu
như: tác động của CO2, bức xạ mặt trời, động đất và núi lửa…
2.2 Nguyên nhân nhân tạo
- Do con người sử dụng những nhiên liệu hóa thạch, sử dụng các loại


hóa chất trong trồng trọt, chăn nuôi, sinh hoạt…
- Con người khai thác tài nguyên và đang dần làm chúng cạn kiệt như:
Tài nguyên nước, rừng, khoáng sản…
- Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các
hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức
các bể hấp thụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven
bờ và đất liền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto
nhằm hạn chế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO
2
, CH
4
,
N
2
O, HFCs, PFCs và SF
6
.
+ CO
2
phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và
là nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển.
CO
2
cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi
măng và cán thép.
+ CH
4
sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai
lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than.
+ N

2
O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp.
+ HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và
HFC-23 là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22.
+ PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
+ SF
6
sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất
magiê.
3 Các biểu hiện của biến đổi khí hậu
- Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung.
- Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi
trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất.
- Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các
vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
- Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các
vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài
sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
- Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu
trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
- Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và
thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
4 Một số hiện tượng của biến đổi khí hậu
4.1 Hiệu ứng nhà kính:
Nhiệt độ bề mặt trái đất được tạo nên do sự cân bằng giữa năng lượng
mặt trời đến bề mặt trái đất và năng lượng bức xạ của trái đất vào khoảng
không gian giữa các hành tinh. Năng lượng mặt trời chủ yếu là các tia sóng
ngắn dễ dàng xuyên qua cửa sổ khí quyển. Trong khi đó, bức xạ của trái đất
với nhiệt độ bề mặt trung bình +16
o

C là sóng dài có năng lượng thấp, dễ
dàng bị khí quyển giữ lại. Các tác nhân gây ra sự hấp thụ bức xạ sóng dài
trong khí quyển là khí CO
2
, bụi, hơi nước, khí mêtan, khí CFC v.v
"Kết quả của sự của sự trao đổi không cân bằng về năng lượng giữa trái đất
với không gian xung quanh, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ của khí quyển trái
đất. Hiện tượng này diễn ra theo cơ chế tương tự như nhà kính trồng cây và
được gọi là Hiệu ứng nhà kính".
4.2 Mưa axit
Mưa axit được phát hiện ra đầu tiên năm 1948 tại Thuỵ Điển. Nguyên
nhân là vì con người đốt nhiều than đá, dầu mỏ. Trong than đá và dầu mỏ
thường chứa một lượng lưu huỳnh, còn trong không khí lại rất nhiều khí
nitơ. Trong quá trình đốt có thể sinh ra các khí Sunfua đioxit (SO
2
), Nitơ
đioxit (NO
2
). Các khí này hoà tan với hơi nước trong không khí tạo thành
các hạt axit sunfuaric (H
2
SO
4
), axit nitơric (HNO
3
). Khi trời mưa, các hạt
axit này tan lẫn vào nước mưa, làm độ pH của nước mưa giảm. Nếu nước
mưa có độ pH dưới 5,6 được gọi là mưa axit.
Do có độ chua khá lớn, nước mưa có thể hoà tan được một số bụi kim
loại và ôxit kim loại có trong không khí như ôxit chì, làm cho nước mưa

trở nên độc hơn đối với cây cối, vật nuôi và con người.
4.3 Thủng tầng ôzon
Phân tử ôzôn bao gồm ba nguyên tử ôxy. Chúng hợp thành một lớp mỏng
trên tầng khí quyển hấp thụ những tia cực tím có hại từ hệ mặt trời. Phần lớn
ôzôn khí quyển được tìm thấy ở độ cao xấp xỉ 6 đến 18 dặm trên bề mặt trái
đất. Những khu vực Ôzôn bị suy giảm nghiêm trọng được gọi là lỗ thủng
ôzôn.
Cái được gọi là lỗ thủng tầng Ôzôn trong bầu khí quyển Trái đất ở vùng
Nam Cực tháng 9 năm 2000, là lỗ thủng lớn nhất đã từng quan sát được.
Diện tích lỗ thủng tháng 9 năm 2000 là 11,4 triệu dặm vuông.
Lỗ thủng lớn thứ 2 hình thành năm 2003 và bao phủ 11,1 triệu dặm
vuông. Những lỗ thủng tầng Ôzôn lớn này che phủ toàn bộ phần Nam Cực
và đỉnh phía Nam của Nam Mỹ. Để dễ hình dung, diện tích bao phủ to gấp
ba lần diện tích nước Mỹ không kể Alaska, hoặc Châu Úc.
Nếu tầng Ozon bị thủng, một lượng lớn tia tử ngoại sẽ chiếu thẳng
xuống Trái đất. Con người sống trên Trái đất sẽ mắc bệnh ung thư da, thực
vật không chịu nổi nhiều tia tử ngoại chiếu vào sẽ bị mất dần khả năng miễn
dịch, các sinh vật dưới biển bị tổn thương và chết dần. Bởi vậy các nước trên
thế giới đều rất lo sợ trước hiện tượng thủng tầng Ozon.
4.4 Cháy rừng
Nhiệt độ tăng cao, đât đai khô cằn và nhiều cánh rừng lớn biến
thành tro bụi – những hiện tượng bất thường này không còn bó hẹp ở một số
quốc gia hay khu vực mà đang xảy ra hầu khắp trên thế giới. Từ khu rừng
Taiga ở Siberie của Nga đến khu rừng Rockies rộng lớn ở Canada, miền
Nam California (Mỹ) và Australia, các nhà khoa học đã tìm thấy những bằng
chứng rõ rang cho thấy tình trạng cháy rừng tràn lan hiện nay có nguồn gốc
từ sự biến đổi khí hậu.
4.5 Lũ lụt- Hạn hán
• Bão
Bão là trạng thái nhiễu động của khí quyển và là một loại hình

thời tiết cực trị.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “ bão” thường được hiểu là bão nhiệt đới, là
hiện tượng thời tiết đặc biệt nguy hiểm chỉ xuất hiện trên các vùng biển
nhiệt đới.
Bão là hiện tượng gió mạnh kèm theo mưa rất lớn do có sự xuất hiện
và hoạt động của các khu áp thấp khơi sâu.
- Bão hình thành trên Đại Tây Dương: hurricanes
- Bão hình thành trên Thái Bình Dương: typhoons
- Bão hình thành trên Ấn Độ Dương: cyclones
• Lũ
Lũ là hiện tượng nước sông dâng cao trong một khoảng thời gian nhất
định, sau đó giảm dần, Lũ là hiện tượng dòng nước do mưa lớn tích lũy từ
nơi cao tràn về dữ dội làm ngập lụt một khu vực hoặc một vùng trũng, thấp
hơn.
Nếu mưa lớn, nước mưa lại bị tích lũy bởi các trướng ngại vật như đất
đá, cây cối cho đến khi lượng nước vượt quá sức chịu đựng của vật chắn,
phá vỡ vật chắn, ào xuống cấp tập(rất nhanh), cuốn theo đất đá, cây cối và
quét đi mọi vật có thể quét theo dòng chảy thì được gọi là lũ quét ( hay lũ
ống), thường diễn ra rất nhanh, khoảng 3-6 giờ.
Có rất nhiều nhân tố tác động và trực tiếp hình thành lũ quét: điều
kiện khí tượng, thủy văn( cường độ mưa, lưu lượng nước và mực nước trên
các sông, suối…) và điều kiện về địa hình( phân bố địa hình, đặc điểm thổ
nhưỡng, độ dốc lưu vực, độ dốc long sông, suối…)
4.6 Hạn hán
Hạn hán là hiện tượng lượng mưa thiếu hụt nghiêm trọng kéo dài, làm
giảm hàm lượng ẩm trong không khí và hàm lượng nước trong đất, làm suy
kiệt dòng chảy sông suối, hạ thấp mực nước ao hồ, mực nước trong các tầng
chứa nước dưới đất gây ảnh hưởng xấu đến sự sinh trưởng của cây trồng,
làm môi trường suy thoái gây đói nghèo dịch bệnh…
4.7 Sa mạc hóa

Một trong những thách thức lớn nhất mà nhân loại phải đối mặt là
hiện tượng sa mạc hóa. Đây là một vấn đề toàn cầu đang tác động đến 1/3
trái đất và đe dọa cuộc sống của 1,2 tỷ người trên hành tinh.
Sa mạc hóa là hiện tượng suy thoái đất đai ở những vùng khô hạn, bán
khô hạn, vùng ẩm nửa khô hạn, gây ra bởi sinh hoạt con người và biến đổi
khí hậu.
4.8 Hiện tượng sương khói
Sương khói là một sự cố môi trường, xảy ra do sự kết hợp sương với
khói và một số chất gây ô nhiễm không khí khác. Sương khói thường tạo ra
nhiều chất gây ô nhiễm thứ cấp có hại cho động thực vật và môi trường nói
chung. Cho đến nay, người rag hi nhận có hai kiểu sương khói đó là: Sương
khói kiểu London và sương khói kiểu Los Angeles
II. NỘI DUNG
1. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trái đất đến thiên nhiên và con người
5.2 Tác động lên môi trường:
• Tài nguyên đất:
Biến đổi khí hậu làm cho trái đất nóng lên nên các lớp băng tuyết sẽ bị
tan nhanh trong những thập niên tới. Nước băng tan mang theo các
lớp cặn lắng khiến các dòng chảy trở nên nông cạn hơn.
Hiện tượng triều cường, mực nước biển dâng cao gây sạn lở bờ
biển, bờ sông, ngập lụt, nhiễm mặn nguồn nước. Mực nước biển dâng
lên có thể nhấn chìm nhiều vùng rộng lớn ở các khu vực thấp ở Việt
Nam, Bangladesh, Ấn độ và Trung Quốc.
Biến đổi khí hậu gây rét đậm, rét hại trong nhiều ngày
Đất vốn đã bị thoái hóa do quá lặm dụng phân vô cơ, hiện tượng khô
hạn, rửa trôi do mưa sẽ dẫn tới tình trạng thoái hóa đất trầm trọng hơn.
Nhiệt độ nóng lên làm quá trình bay hơi diễn ra nhanh hơn, đất bị mất
nước trở nên khô cằn, các quá trình chuyển hóa trong đất khó xảy ra.
Mưa axit rửa trôi hoàn toàn chất dinh dưỡng và vi sinh vật tồn
tại trong đất…

Tại Việt Nam mất rừng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
hoang mạc hóa, gây suy thoái môi trường, lũ lụt và hạn hán.
Qúa trình sa mạc hóa và thoái hóa đất ở Việt Nam là kết quả
của xói mòn đất, đá ong hóa, hạn hán, cát bay/cát chảy, đất nhiễm
mặn, nhiễm phèn. Việt Nam có sa mạc cục bộ. TRong số tổng khoảng
9,34 triệu hecta đất hoang hóa, 1.550.000 hecta đang chịu tác động
bởi sa mạc hóa. Ứơc tính quá trình sa mạc hóa mỗi năm làm mất
khoảng 20ha đất nông nghiệp và hàng trăm nghìn hecta đất tiếp tục bị
thoái hóa tại Quảng Trị, 20- 30ha đất ruộng vườn và cây ăn quả bị cát
phủ dày thêm 2m mỗi năm. Ta có bảng “phân bổ đất hoang hóa ở Việt
Nam”Bảng 1- phụ lục
• Tài nguyên nước
Việt Nam là một trong 5 nước sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của
biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Theo tính toán của các chuyên gia
nghiên cứu biến đổi khí hậu, đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở Việt
Nam có thể tăng lên 3
o
C và mực nước biển có thể dâng lên 1m. Theo
đó, khoảng 40 nghìn km
2
đồng bằng ven biển Việt Nam sẽ bị ngập.
Theo dự đoán của chương trình phát triển Liên Hiệp Quốc(UNDP),
các tác động trên sẽ gây thiệt hại khoảng 17 tỉ đồng mỗi năm và
khiếm khoảng 17 triệu người không có nhà. Còn văn phòng quản lý
điều tra tài nguyên biển và môi trường( thuộc bộ Tài nguyên và Môi
trường) dự báo: mực nước biển ở Việt Nam sẽ dâng cao từ 3- 15cm
vào năm 2010, dâng từ 15- 19cm vào năm 2070. Các vùng ảnh hưởng
là Cà Mau, Kiên Giang, Bà Rịa Vũng Tàu, Thanh Hóa, Nam Định,
Thái Bình.
Đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng là những

vùng trũng nên bị ảnh hưởng nhiều nhất khi xảy ra ngập lụt, xâm nhập
mặn và các hiện tượng thời tiết xấu. Trong đó 90% diện tích thuộc các
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long bị ngập hầu như toàn bộ, vf có khoảng
10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất đối với GDP khoảng 10%.
Nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng như
đợt nhập mặn vào năm 2005.
Đồng bằng sông Cửu Long sẽ là vùng bị ảnh hưởng mạnh nhất,
nước biển dâng cao hơn sẽ làm cho nhiều vùng đồng bằng nước ngọt
hiện nay trở thành vùng nước lợ, hang triệu người sẽ có nguy cơ bị
mất chỗ ở, từ đó làm gia tăng sức ép lên sự phát triển của các vùng lân
cận, làm thay đổi chế độ thủy văn dòng chảy và gây áp lực đến 90%
dâng cao làm ngập lụt phần lớn đồng bằng Sông Cửu Long vốn đã bị
ngập lụt hàng năm, dẫn đến mất nhiều đất nông nghiệp. Sẽ có từ
15.000- 20.000 km
2
đất thấp ven biển bị ngập hoàn toàn. Lưu lượng
nước sông Mê Công giảm từ 2- 24% trong mùa khô, tăng từ 7- 15%
vào mùa lũ. Hạn hán sẽ xuất hiện nhiều hơn. Nước lũ sẽ cao hơn tại
các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang, Kiên Giang,
Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Hậu Giang, thời gian ngập lũ tại đây kéo dài
hơn hiện nay. Việc tiêu thoát nước mùa mưa lũ cũng khó khăn. Suy
giảm tài nguyên nước sẽ ảnh hưởng nghiệm trọng đến sản xuất nông
nghiệp, nghề cá. Quá trình xâm nhập mặn vào nội đồng sẽ sâu hơn,
tập chung tại các tỉnh ven biển bao gồm Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc
Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang, Long An và nước ngọt sẽ khan
hiếm.
Tóm lại, khan hiến và thiếu nước là mối đe dọa rất nghiêm
trọng đối với sự tồn tại của con người trong tương lai. Vì lẽ đó, cần có
các giải pháp quản lý, khai thác và bảo vệ tốt tài nguyên nước. Trước
hết, cần phải củng cố, bổ sung mạng lưới điều tra quan trắc tài nguyên

nước bao gồm cả nước mặt và nước ngầm, cả lượng và chất, hình
thành mạng lưới quan trắc điều tra tài nguyên nước thống nhất trong
cả nước, tiến hành kiểm kê đánh giá tài nguyên nước trong các lưu
vực sông, các vùng toàn lãnh thổ. Trên cơ sở kiểm kê đánh giá tài
nguyên nước và cân bằng kinh tế mà xây dựng chiến lược, chính sách
phát triển bền vững tài nguyên nước quốc gia nói chung là cho các lưu
vực nói riêng. Cần thực hiện nghiêm chỉnh Luật Tài Nguyên Nước và
đẩy mạnh hoạt động của hội đồng Tài nguyên Nước Quốc gia và Ban
quản lý lưu vực các sông.
• Tài nguyên không khí
Môi trường không khí được xem là tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp đến các môi trường khác. Nó là nơi chứa các chất độc hại gây nên
biến đổi khí hậu, và chính biến đổi khí hậu sẽ tác động ngược lại môi
trường không khí làm cho chất lượng không khí ngày càng xấu hơn.
• Sinh quyển
Mất đa dạng sinh học ngày nay diễn ra một cách nhanh chóng chưa
từng có, kể từ thời kỳ các loài khủng long bị tiêu diệt cách đây khoảng
65 triệu năm và tốc dộ biến mất của các loài hiện nay ước tính gấp
khoảng 100 lần so với tốc độ mất các loài trong lịch sử Trái Đất, và
trong những thập kỷ sắp tới mức độ biến mất của các loài sẽ gấp
1.000- 10.000 lần (MA 2005) .Có khoảng 10% các loài đã biết được
trên thế giới đang cần phải có những biện pháp bảo vệ, trong đó có
khoảng 16.000 loài được xem là đang có nguy cơ bị tiêu diệt. Trong
số các loài thuộc nhóm động vật có xương sống chính đã được nghiên
cứu khá kỹ, có hơn 30% các loài ếch nhái, 23% các loài thú và 12%
các loài chim( IUCN 2005), nhưng thực tế số loài đang nguy cấp lớn
hơn rất nhiều.
5.2 Ảnh hưởng đến con người
• Ảnh hưởng đến con người
- Sức khỏe:

Những đối tượng dễ bị tổn thương nhất là những nông dân
nghèo, các dân tộc thiểu số ở miền núi, người già, trẻ em và phụ nữ
Tình trạng nóng lên làm thay đổi cấu trúc màu nhiệt hàng năm.
Ở miền Bắc mùa đông sẽ ấm lên dẫn tớ thay đổi nhịp sinh học của con
người.
Nhiệt độ tăng làm tăng tác động tiêu cực đối với sức khỏe con
người, dẫn đến gia tăng một số nguy cơ đối với tuổi già, người mắc
bệnh tim mạch, bệnh thần kinh
Thiên tai như bão tố, nước dâng, ngập lụt, hạn hán, mưa lớn và
sạn lở đất… Gia tăng về cường độ và tần số làm tăng số người bị thiệt
mạng và ảnh hưởng gián tiếp đến sức khỏe thông qua ô nhiễm môi
trường, dịch bệnh…
• Kinh tế
Việt Nam là nước đang phát triển, phát thải khí gây hiệu ứng
nhà kính ở mức độ còn thấp nhưng lại phải hứng chịu nhều tác động
của Biến đổi khí hậu. Theo đánh giá của ngân hàng thế giới (2007),
Việt Nam là một trong số các nước sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất của
hiện tượng biến đổi khí hậu. Trong đó đồng bằng sông Cửu Long và
đồng bằng sông Hồng bị ngập nhiều nhất. Nếu mực nước biển dâng
1m sẽ có 10% dấn số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất 10% GDP, nếu
nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp
và tổn thất khoảng 25%GDP.
1 Các kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam
2.1 Kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam
Mục tiêu của việc xây dựng các kịch bản biến đổi khí hậu, nước
biển dâng cho Việt Nam là đưa ra những thông tin cơ bản về xu thế
biến đổi khí hậu, nước biển dâng của Việt Nam trong tương lai tương
ứng với các kịch bản khác nhau về phát triển kinh tế - Xã hội toàn cầu
dẫn đến các tốc độ phát thải khí nhà kính khác nhau. Các kịch bản
biến đổi khí hậu, nước biển dâng sẽ là định hướng ban đầu để các Bộ,

ngành địa phương đánh giá các tác động có thể có của biến đổi khí
hậu đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội, xây dựng và triển khai kế
hoạch hành động nhằm thích ứng và giảm thiểu tác động tiềm tang
của biến đổi khí hậu trong tương lai.
Theo Ban Liên Chính phủ về biến đổi khí hậu ( IPCC), kịch bản
biến đổi khí hậu là bức tranh toàn cảnh của khí hậu trong tương lai
dựa trên một tập hợp các mối quan hệ khí hậu, được xây dựng để sử
dụng trong nghiên cứu những hậu quả của biến đổi khí hậu do con
người gây ra và thường được dung như là đầu vào cho các mô hình
đánh giá tác động. Các kết quả của IPCC đã được trình bày trong các
báo cáo lần thứ nhất năm 1992 đến báo cáo lần thứ 4 năm 2007.
Hiện nay đã có nhiều quốc gia, nhiều khu vực xây dựng kịch
bản biến đổi khí hậu với quy mô khu vực, quốc gia và các vùng khí
hậu hoặc phạm vi nhỏ hơn. Về khung thời gian, hầu hết các kịch bản
biến đổi khí hậu thường được xây dựng cho thập kỷ của thế kỷ 21.
Ở Việt Nam, một số kịch bản biến đổi khí hậu đã được xây
dựng và áp dụng trong các hoạt động về biến đổi khí hậu. Tuy nhiên,
để có một kịch bản tổng hợp, có cơ sỏ khoa học và thực tiễn, nhằm
triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến
đổi khí hậu, Chính phủ đã giao cho bộ Tài nguyên và Môi trường chủ
trì xây dựng các kich bản biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng
cho Việt Nam.
2.2 Biểu hiện của biến đổi khí hậu, nước biển dâng
Biến đổi khí hậu, với các biểu hiện chính là sự nóng lên toàn
cầu và mực nước biển dâng, chủ yếu là do các hoạt động kinh tế - xã
hội của con người gây phát thải quá mức vào khí quyển các khí gây
hiệu ứng nhà kính.
Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC năm 2007, nhiệt độ
trung bình toàn cầu đã tăng khoảng 0,74
o

C trong thời kỳ 1906-2005
và tốc độ tăng của nhiệt độ trong 50 năm gần đây gần gấp đôi so với
50 năm trước đó. Nhiệt độ trên lục địa tăng nhanh hơn so với trên đại
dương.
Trong 100 năm qua, lượng mưa có xu thế tăng ở khu vực vĩ dộ
cao hơn 30
o
. Tuy nhiên, lương mưa lại có xu hướng giảm ở khu vực
nhiệt đới từ giữa những năm 1970. Hiện tượng mưa lớn có dấu hiệu
tăng ở nhiều khu vực trên thế giới( IPCC-2007)
Mực nước biển toàn cầu đã tăng trong thế kỷ 20 với tốc độ ngày
càng cao. Hai nguyên nhân chính làm tăng mực nước biển là sự giãn
nở nhiệt của đại dương và sự băng tan.
Ở Việt Nam, kết quả phân tích các số liệu khí hậu cho thấy biến
đổi của các yếu tố khí hậu và mực nước biển có những đặc điểm sau:
- Nhiệt độ: trong 50 năm qua (1958-2007), nhiệt độ trung bình
năm ở Việt Nam tăng len khoảng từ 0,5
o
C đến 0,7
o
C. Nhiệt độ mùa
đông tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu
phía Bắc tăng nhanh hơn ở các vùng khí hậu phía Nam. Nhiệt độ
trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây cao hơn trung bình năm của 3
thập kỷ trước đó.
- Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng
mưa trung bình năm trong 9 thập kỷ vừa qua ( 1911-2000) không rõ
rệt theo các thời kỳ và trên các vùng khác nhau: có giai đoạn tăng lên
và có giai đoạn giảm xuống. Lượng mưa trong năm giảm ở các vùng
khí hậu phía bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía nam. Tính trung

bình trong cả nước, lượng mưa của năm trong 50 năm qua
(1958 - 2007) đã giảm khoảng 2% .
- Không khí lạnh: số đợt không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt
Nam giảm đi rõ rệt trong hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, các biểu hiện dị
thường lại thường xuất hiện mà gần đây nhất là đợt không khí lạnh
gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và tháng 2 năm
2008 ở Bắc bộ.
- Bão: Trong những năm gần đây, bão thường có cường độ
mạnh hơn và xuất hiện nhiều hơn. Qũy dạo của bão có dẫu hiệu dịch
chuyển dần về phía Nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, các cơn bão
cũng có đường đi phức tạp hơn.
- Mưa phùn: Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm
dần từ thập kỷ 1981 – 1990 và chỉ còn gần 1 nửa ( 15 ngày/năm) trong
10 năm gần đây
- Mực nước biển: Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn học ven
biển Việt Nam cho thấy tốc độ dâng lên của mực nước biển trung
bình ở Việt Nam hiện nay là khoảng 3mm/năm( giai đoạn 1993 –
2008), tương đương với tốc độ tăng trung bình trên thế giới. Trong
khoảng 50 năm qua, mực nước biển tại trạm hải văn Hòn Dáu dâng
lên khoảng 20cm
2.3 Kịch bản
Kịch bản biến đổi khí hậu được xây dựng năm 1994 trong báo
cáo về biến dổi khí hậu ở Châu Á do ngân hang phát triển châu Á tài
trợ.
Kịch bản biến đổi khí hậu trong thông báo đầu tiên của Việt
Nam cho Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu,
( Viện KH KTTVMT,2003)
Kịch bản biến đổi khí hậu được xây dựng bằng phương pháp tổ
hợp và phương pháp chi tiết hóa thống kê cho Việt Nam và các khu
vực nhỏ hơn.

Các kịch bản phát thải khí nhà kính được chọn để tính
toán xây dựng kịch bản biến đổi khí hậu cho Việt Nam là kịch bản
phát thải thấp ( kịch bản B1), kịch bản phát thải trung bình của nhóm
các kịch bản phát thải trung bình ( kịch bản B2) và kịch bản phát thải
trung bình của nhóm các kịch bản phát thải cao ( kịch bản A2)
Các kịch bản biến đổi khí hậu đối với nhiệt độ và lượng mưa
được xây dựng cho bảy vùng khí hậu của Việt Nam: Tây Bắc, Đông
Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ.
Thời kỳ dùng làm cơ sở để so sánh là 1980- 1999 ( cũng là thời kỳ
được chọn làm báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC)
Các kịch bản biến đổi khí hậu cho các vùng khí hậu của Việt
Nam trong thế kỷ 21
a) Về nhiệt độ
Nhiệt độ mùa đông có thể tăng nhanh hơn so với mùa hè ở tất
cả các vùng khí hậu của nước ta. Nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía
Bắc có thể tăng nhanh hơn so với các vùng khí hậu phía Nam
- Theo kịch bản phát thải thấp (B1): vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung
bình năm ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình
thời kỳ 1980– 1999 khoảng từ 1,6 – 1,9
o
C và ở các vùng khí hậu phía
Nam tăng ít hơn, chỉ khoảng từ 1,1– 1,4
o
C( Bảng 2)
- Theo kich bản phát thải trung bình (B2): vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ
trung bình năm có thể tăng lên 2,6
o
C ở Tây Bắc, 2,5
o
C ở Đông Bắc,

2.4
o
C ở Đồng Bằng Bắc Bộ, 2,8
o
C ở Nam Bộ so với trung bình thời
kỳ 1980-1999( Bảng 3)
-Theo kịch bản phát thải cao (A2): vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung
bình năm ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình thời kỳ
1980- 1999 khoảng 3,1- 3,6
o
C ở Nam Bộ( Bảng 4)
b) Về lượng mưa
Lượng mưa mùa khô có thể giảm ở hầu hết các vùng khí hậu của nước
ta, đặc biệt là các vùng khí hậu phía Nam. Lượng mưa mùa mưa và
tổng lượng mưa năm có thể tăng ở tất cả các vùng khí hậu.
- Theo kịch bản phát thải thấp (B1): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa
năm có thể tăng khoảng 5% ở Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng Bằng Bắc
Bộ, Bắc Trung Bộ và từ 1 -2% ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam
Bộ so với trung bình thời kỳ 1980- 1999 (Bảng 5). Lượng mưa thời
kỳ từ tháng III đến tháng V sẽ giảm từ 3- 6% ở các vùng khí hậu phía
Bắc và lượng mưa vào giữa mùa khô ở các vùng khí hậu phía Nam có
thể giảm tới 7-10% so với thời kỳ 1980- 1999. Lượng mưa các tháng
cao điểm của mùa mưa sẽ tăng từ 6- 10% ở cả bốn vùng khí hậu phía
Bắc và Nam Trung Bộ, còn ở Tây Nguyên và Nam Bộ chỉ tăng
khoảng 1% so với thời kỳ 1980- 1999.
- Theo kịch bản phát thải trung bình (B2): vào cuối thế kỷ 21, lượng
mưa năm có thể tăng khoảng 7- 8% ở Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Bộ,
Bắc Trung Bộ và từ 2- 3% ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ so
với trung bình thời kỳ 1980- 1999( Bảng 6). Lượng mưa thời kỳ từ
tháng III đến tháng V sẽ giảm từ 4- 7% ở Tây Bắc, Đông Bắc và Đồng

Bằng Bắc Bộ, khoảng 10% ở Bắc Trung Bộ, lượng mưa vào giữa mùa
khô ở các vùng khí hậu phía Nam có thể giảm tới 10- 15% so với thời
kỳ 1980- 1999. Lượng mưa các tháng cao điểm của mùa mưa sẽ tăng
từ 10- 15% ở cả bốn vùng khí hậu phía Bắc và Nam Trung Bộ, còn ở
Tây Nguyên và Nam Bộ chỉ tăng trên dưới 1%.
Theo kịch bản phát thải cao(A2): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có
thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980- 1999, khoảng 9- 10% ở Tây Bắc,
Đông Bắc, 10% ở Đồng Bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, 4- 5% ở Nam Bộ và
khoảng 2% ở Tây Nguyên, Nam Bộ( Bảng 7). Lượng mưa thời kỳ từ tháng
III đến tháng V sẽ giảm từ 6- 9% ở Tây Bắc, Đông Bắc và Đồng Bằng Bắc
Bộ, khoảng 13% ở Bắc Trung Bộ, lượng mưa vào giữa mùa khô ở Nam
Trung Bộ, Tây Nguyên, Nam Bộ có thể giảm tới 13- 22% so với thời kỳ
1980- 1999. Lượng mưa các tháng cao điểm của mùa mưa sẽ tăng từ 12-
19% ở cả bốn vùng khí hậu phía Bắc và Nam Trung Bộ, còn ở Tây Nguyên
và Nam Bộ chỉ vào khoảng 1- 2%
2 Kịch Bản nước biển dâng
Báo cáo lần thứ tư của IPCC ước tính mực nước biển dâng khoảng 26-
59cm vào năm 2010, tuy nhiên không loại trừ khả năng tốc độ cao hơn.
Nhiều nhà khoa học đã đánh giá rằng các tính toán của IPCC về thay
đổi nhiệt độ toàn cầu là tương đối phù hợp với số liệu nhiệt độ thực đo.
Tuy nhiên, tính toán của IPCC về nước biển dâng là thấp so với số liệu
thực đo tại các trạm vệ tinh, mà nguyên nhân chính dẫn đến sự thiên thấp
này là do các mô hình tính toán mà IPCC sử dụng để phân tích đã chưa
đánh giá đầy đủ các quá trình tan băng.
Một số nghiên cứu gần đây cho rằng mực nước biển toàn cầu có thể
tăng 50- 140cm vào năm 2010.
Các kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam được tính toán theo kịch
bản phát thải thập nhất (B1), kịch bản phát thải trung bình(B2) và kịch
bản phát thải cao nhất (A1F1)
Kết quả tính toán theo các kịch bản phát thải thấp, trung bình và cao

cho thấy vào giữa thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng thêm 28- 33cm
và đến cuối thế kỷ 21 mực nước biển dân them từ 65- 100cm so với thời
kỳ 1980- 1999( Bảng 8)
Mực nước biển bình quân của khu vực được tính toán dựa trên số liệu
mực nước nước triều thực đo tại Vũng Tàu( giai đoạn 1979- 2007). Trong
tính toán chưa xét đến các yếu tố tác động của sóng, thủy triều, nước
dâng do bão, lũ và các cơ chế thủy động lực khác.
3 Những ý kiến riêng trong vấn đề Biến đổi khí hậu tại Việt Nam
5.2 Thực trạng
Biến đổi khí hậu đã và đang diễn ra. Mọi chuyện không còn trên kịch
bản nữa mà đang diễn ra từng ngày trên toàn thế giới. Điều đáng nói là
chúng ta nhận biết được nó, chúng ta đã đề ra giải pháp nhưng lại chưa
thực sự thực hiện tốt những giải pháp đó. Chính sự chưa thực sự đề cao
vấn đề của chúng ta nên có thể tình hình biến đổi khí hậu sẽ ngày càng
nghiêm trọng hơn, diễn ra nhanh hơn và nguy hại nhiều hơn là những gì
kịch bản đang đề ra.
Nhiều người nghĩ biến đổi khí hậu chỉ là nước biển dâng. Thậm chí
còn tỏ ra chủ quan, thờ ơ là mỗi năm nước dâng lên 1cm thì còn lâu mới
đến “ nhà ta”, rồi những dự báo, kịch bản nói rằng đến năm 1050 mới tác
động đến đồng bằng sông Cửu Long. Đó là những luồng tư duy coi
thường biến đổi khí hậu.
Thực tế đã chứng minh Biến đổi khí hậu đã tác động không chỉ trên
thế giới, không chỉ trong kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam mà nó
đã tác động khắp nơi. Đó là sự bất thường và cường độ ngày càng lớn về
bão lũ, là thủy triều bị thay đổi gây ngập lụt…. Trước kia cũng có lũ, có
bão nhưng đó là trong vòng chấp nhận và kiểm soát được, còn nay bão
hình thành nhiều, cường độ, hướng đi… luôn diễn ra phức tạp, tần số lớn
gấp nhiều lần trước. Lũ thì dâng bất ngờ, mức lũ cao hon nhiều so với
trước. Tất cả là hệ quả của biến đổi khí hậu
Ví dụ minh chứng cho điều này chính là hiện tượng thiên nhiên bất ổn

định trong thời gian gần đây:
Đầu tiên trong nước ta phải kể đến trận lụt ở miền trung năm nay.
Đành rằng miền Trung lũ lụt là câu nge bình thường. Nhưng vấn đề đặt ra
là những biện pháp đặt ra, đã được dự thảo tiến hành đến đâu mà miền
Trung cứ đón lũ như định mệnh. Đáng nói hơn là lũ có phải năm nào
cũng như năm nào? Mỗi lần lũ tràn về là lại một lần tăng thêm cường độ,
tăng thêm thiệt hại. Đó là chưa muốn nhắc đến trận ngập lụt ở ngay chính
thủ đô Hà Nội năm 2008,( Hà Nội mùa này phố cũng như sông…)
Đó là những gì nho nhỏ mà chúmg ta chứng kiến so với sự chứng kiến
của thế giới. Những nước góp phần vào hiện tượng biến đổi khí hậu cũng
đang phải chứng kiến hệ quả mình tạo ra:
Ngày 11/3/2011 nước Nhật đã phải chịu một thảm họa kép tàn
khốc.Trận động đất mạnh tới 9 độ richter kèm theo những con sóng thần
cao tới 14m đã gây ra sự tàn phá khủng khiếp trên khu vực bắc Nhật Bản.
Theo ước tính thì thiệt hại của thảm họa này riêng về vật chất có thể lên
tới con số khổng lồ 309 tỉ USD và đây cũng được xác nhận là thảm họa
thiên nhiên gây tổn thất về vất chất lớn nhất trong lịch sử thế giới.
Ngoài những thiệt hại về người và của thì sau khi thảm họa đi qua
Nhật Bản còn phải đối mặt với một thảm họa tiềm tàng khác đó là rò rỉ
chất phóng xạ và xa hơn là thảm họa hạt nhân. Đây là thảm họa do chính
con người tạo ra chứ không thể đổ lỗi cho thiên nhiên được
Không chỉ ở Nhật, thời gian gần đây động đất còn làm cho nhiều nơi
hoảng loạn: Trận động đất mạnh 6,8 độ Richter với tâm chấn nằm tương
đối nông- 10km dưới lòng đất- gây nên chấn dộng tại những địa điểm rất
xa như Bangkok, Hà Nội và một phần Trung Quốc. Ngay sau đó một trận
động đất với cường độ 5.5 dộ richter đã được nghi nhận vùng giáp biên
giới Thái Lan khoảng 90km ở phía Bắc. Có nhiều nhà nghiên cứu khoa
học cho rằng những trận động đất sau này diễn ra gây dư chấn rộng là hệ
quả của chuỗi tác động từ sau trận động đất mạnh 8,9 độ richter ở Nhật
Bản. Những dư trấn này gây hoang mang cho rất nhiều vùng về một nguy

cơ thảm họa như ở Nhật trong một tương lai gần.
5.2 Kiến nghị
5. Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu
Để ứng phó vơi biến đôi khí hậu, Chính phủ Việt Nam đã và
đang tiến hành nhiều hoạt động như xây dựng thể chế, xây dựng
Chương trình, Mục tiêu quốc gia, giao nhiệm vụ điều phối các hoạt
động ứng phó với biến đổi khí hậu cho các bộ/ ngành. Đồng thời, Việt
Nam mở rộng nhiều kênh thông tin về biến đôi khí hậu trong cộng
đồng và phối hợp, hợp tác với các tổ chức quốc tế, nhà tài trợ trên
nhiều lĩnh vực về biến đổi khí hậu.
Nhà nước và nhiều địa phương đã phối hợp với các nhà tài trợ
lập được cơ chế khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo
như: Năng lượng khí sinh học ( biogas, phế thải trong nông nghiệp ở
nông thôn); năng lượng mặt trời ( thiết bị đun nước nóng, chiếu sang
bằng pin mặt trời), khí gas( bãi rác đô thị); năng lượng gió( phát điện,
bơm nước vào ruộng muối ở vùng ven biển, hải đảo); thủy điện, đặc
biệt là thủy điện nhỏ và cực nhỏ với công suất lắp đặt lên tới hàng
nghìn MW ( phát điện ở vùng sâu, vùng xa hoặc điều tiết, cấp nước
tưới tiêu),… Đặc biệt, một dự án thí điểm xây dựng chi trả hấp thụ
các-bon trong lâm nghiệp được triển khai ở huyện Cao Phong- Hòa
Bình, nhằm chuẩn bị cho việc tham gia thị trường các-bon của Việt
Nam. Để ứng phó voeis Biến đổi khí hậu, chính phủ Việt Nam còn
triển khai các dự án về sản xuất điện năng không thải CO2.Đó là dự
án xây nhà máy điện chày bằng sức gió có công suất 50MW. Đây là
những bước ứng dụng công nghệ năng lượng mới phù hợp với điều
kiện của Việt Nam mà không gây ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế
trong dài hạn, không gia tăng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính.
Tuy nhiên đây mới chỉ là những hoạt động mở đầu,
chúng ta còn phải thực hiện ngay những hoạt động cụ thể như quy
hoạch và tiến hành nâng cấp hệ thống đê biển, đê cửa sông đảm bảo

chống được mức nước triều tần suất 5% ứng với gió bão cấp 9( năm
2015) và cấp 10( năm 2020) đối với các tỉnh từ Quảng Ninh đến
Quảng Nam. Từng bước thực hiện bốn nhân tố chính là vấn đề buôn
bán lượng khí thải, hợp tác kỹ thuật, giảm phá rừng, ứng phó với biến
đổi khí hậu nhằm đạt được những mục tiêu dài hạn để góp phần vào
mục tiêu chung của toàn cầu. Dù còn nhiều thách thức nhưng đến nay
những chương trình, kế hoạch đã được triển khai, nhất là công tác
thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng và đã tạo được
nhiều cây trồng mới thích hợp với khí hậu đang dàn biến đổi. Cùng
với sự quan tâm và hợp tác của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trong
khu vực và thế giới, Việt Nam sẽ ứng phó và thích ứng thành công với
biến đổi khí hậu, hạn chế thiên tai, phát triển bền vững.
Ngày 16/92009, tại TP. HCM, trong cuộc trao đổi với báo chí về vấn
đề biến đổi khí hậu và đề xuất các giải pháp đối phó với biến đổi khí hậu,
ông Ralph Cantral, cố vấn cấp cao văn phòng quản lý biển và tài nguyên bờ
biển- cục quản lý biển và khí quyển quốc gia Hoa Kỳ đã đưa ra 3 phương án
ứng phó:
Thứ nất cần tiến hành các biện pháp bảo vệ đất, nhất là đối với các
vùng đất ven biển, bởi nếu có biến đổi khí hậu sẽ gây nên tình trạng đất
quanh bờ biển bị xói mòn.
Thứ hai, các biện pháp thích nghi với biến đổi khí hậu như nâng kết
cấu hoặc tạo ra các kết cấu có thể di chuyển được.
Thứ ba, di dời dân ra khỏi vùng bị ảnh hưởng, đồng thời thực hiện
việc tái định cư đối với các khu vực bị tác động của lũ lụt bằng cách di dân
hoặc thôi vụ hoặc vĩnh viễn. Sauk hi di dời có thể tận dụng các vùng đất này
làm đất nông nghiệp hoặc dùng vào các mục đích khác phù hợp hơn.

×