Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Thăng Long thành hoài cổ Bà Huyện Thanh Quan pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.78 KB, 4 trang )

Thăng Long thành hoài cổ
Bà Huyện Thanh Quan

Tạo hoá gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
1. Đề
Như một lời than, nhẹ trách tạo hoá. Hí trường: sân khấu. Tinh sương:
Tinh là sao, sương là sương giá. Mấy tinh sương là mấy năm. Ông trời gây
chi thế, làm cho cuộc đời luôn biến đổi chẳng khác gì các lớp kịch, lớp này
tiếp sang lớp khác trên sân khấu. Cho đến nay, đã mấy năm thấm thoắt trôi
nhanh qua. Ý thơ sâu nắng buồn man mác về dòng chảy thời gian:
"Tạo hoá gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương".
2. Thực
Kinh thành xưa - thuở vàng son nay còn đâu nữa! Chỉ còn lại vẻ hoang
tàn:
"Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương".
Đường bàn cờ dọc ngang, xưa kia xe ngựa của ông hoàng bà chúa đi lại
rầm rập nay chỉ còn lại "hồn thu thảo" - hồn cỏ thu tàn tạ. Lâu đài xưa đã
đổ nát, đã hoang tàn chỉ còn lại cái "nền cũ", vẻ tang thương hiện lên dưới
"bóng tịch dương" - bóng mặt trời chiều tối. Hai câu thơ đối nhau làm nổi
bật cái hoang phế, tàn tạ, thương tâm. "Lối xưa" với "nền cũ", "xe ngựa" với
"lâu đài", "hồn thu thảo" với "bóng tịch dương" đăng đối, hoà hợp; nỗi đau
buồn tang thương từ cảnh vật đã và đang thấm sâu vào lòng người. Đó là nỗi


buồn hoài cổ về kinh thành xưa.
3. Luận
Nỗi đau về cuộc đời tang thương biến đổi như chất chứa dồn nén cảnh
vật:
"Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương".
Đá và nước đã được nhân hoá, như hai chứng nhân lịch sử, như thách
thức (trơ gan) cùng năm tháng (tuế nguyệt). Như đau đớn giận hờn (cau mặt)
với sự đổi thay, với dâu bể (tang thương). Nghệ thuật chọn từ, phối thanh
(bằng trắc), phép đối - được nữ sĩ vận dụng rất điêu luyện. Các triều đại đã
nối tiếp hưng phế. Kinh thành xưa, đế đô nghìn năm xưa nay xuống cấp trở
thành một tỉnh dưới triều Nguyễn. Với nữ sĩ, ông cha đã mấy đời ăn lộc triều
Lê, Thăng Long lại còn chốn cũ quê nhà thì nỗi đau buồn không thể nào kể
xiết. Đá và nước được nói đến trong phần luận chính là nỗi lòng nhà thơ.
4. Kết
Hai câu kết nói về dòng chảy thời gian và nỗi đoạn trường của Bà Huyện
Thanh quan - nỗi buồn hoài cổ:
"Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường."
Gương cũ nghĩa bóng là lịch sử, là trang đời. Kim cổ là hiện tại và quá
khứ. Chuyện lịch sử qua hàng năm như soi vào quá khứ và hiện tại. Nhìn
"Cảnh đấy" - cảnh Thăng Long tang thương, cảnh "sóng lớp phế hưng" mà
"người đây" (nữ sĩ) đau đớn tưởng đứt ruột (luống đoạn trường). Đó là nỗi
đau của một con người, cũng là nỗi buồn của một lớp người khi nhớ về kinh
thành xưa một thời vang son, hoa lệ.

×