NGŨ HỨNG Ở QUÁN TRUNG TÂN
Năm Nhâm Dần (1548), Nguyễn Bỉnh Khiêm thoái quan về sống giữa xóm
làng quê hương. Mùa thu năm ấy, ông cùng các bô lão dựng quán Trung Tân
làm chỗ ngồi chơi hóng gió và để khách qua đường nghỉ chân. Trong "Bài
bia ở quán Trung Tân", Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ:
"Có người hỏi rằng: "Quán ấy đặt tên "Trung Tân" có nghĩa là gì?". Ta trả
lời rằng: "Trung nghĩa là đứng giữa không chênh lệch, giữ vẹn được điều
thiện là trung, không giữ vẹn được điều thiện thời không phải là trung vậy;
tân có nghĩa là cái bến, không biết chỗ đáng đậu là bến mê vậy ".
Trạng Trình có chùm thơ 3 bài lấy nhan đề "Trung Tân ngụ hứng"; Bài
thơ thứ nhất này gồm 24 câu thơ theo thể ngũ ngôn trường thiên, lấy vần trắc
(bắc - trắc - thực - sắc, ) làm âm vận chủ đạo. Bài thơ dịch của Ngô Lập
Chi rất hay, vừa giữ được nguyên điệu thanh thoát, vừa sát nguyên tác, nhất
là phép đối.
Hai câu đầu nói lên vị trí quán Trung Tân:
"Sông ngòi vòng tây bắc
Làng xóm bọc tây nam".
Quán ở giữa xóm làng đông vui, có sông ngòi uốn quanh, rất hữu tình.
Trong "Bài bia ở quán Trung Tân" tác giả cho biết rất cụ thể Bến Trung
Tân, trông sang phía Đông nhìn Đông Hải, ngoảnh sang phía Tây nhìn Tây
Kinh; bên nam trông sang Ngư Khê, thì thấy Trung Am, Bích Động, cái kia
cái nọ quanh tựa vào nhau; bên bắc cúi nhìn sông Tuyết Giang, thì thấy chợ
Hàn, bến Nguyệt bao bọc tả hữu; một con đường cái quan chạy dọc ở giữa,
biết bao bánh xe, chân ngựa, từ hàng ngàn dặm xa tấp lập đi qua chốn
này"
Ba câu tiếp theo, nói về am Bạch Vân nơi đọc sách và dưỡng nhàn của
ông Trạng sau khi đã thoát vòng danh lợi. Am ở bên nửa mẫu vườn, một nơi
thanh tĩnh mà chủ nhân là một con người thanh bạch. Câu thơ "Xe ngựa bụi
không đến" mang tính hàm nghĩa sâu sắc.
Tiếp theo, nhà thơ nói đến hoa, trúc, cá, chim, chuyện uống rượu, pha trà.
Vừa tả cảnh vừa tả tình. Cảnh vật được nhân hoá. Cá, chim như bầu bạn tri
kỷ. Một tâm hồn thanh cao, ung dung tự tại, chan hoà giữa thiên nhiên.
Uống trá, uống rượu, ngâm thơ lòng càng thêm "tiêu hao, khoan khoái".
Từng cặp câu song hành, đăng đối, ngôn ngữ hài hoà, giọng thơ khoan
thai, đủng đỉnh.
Trong nguyên tác, trong bản dịch đều thế:
"Hoa, trúc tự tay giồng
Gậy, dép bén mùi hoa,
Chén, cốc ánh sắc hồng.
Rửa nghiên, cá nuốt mực,
Pha trà, chim lánh khói
Ngâm thơ vừa tiêu dao,
Uống rượu thêm khoan khoái'.
Nguyễn Bỉnh Khiêm có không ít vần thơ dung dị nói lên niềm vui dào dạt
của kẻ sĩ thanh cao sống giữa thiên nhiên. Một cuộc đời thanh bạch mà sang
trọng không phải ở cõi đời này ai cũng dễ có?
- "Ruộng hiềm đất áy, cày chưa chín,
Sách được câu thần dạ những ngong"
(Bài 111)
- "Trà sen, sáng đãi người đưa khát,
Rượu thánh (ngon), hôm mời khách uống say".
(Bài 140)
- "Vườn rau, sáng dạo, sương đầy dép,
Bến cá đêm trăng, bóng lọt thuyền".
("Ngụ ý"- thơ dịch)
Giọng thơ biến đổi, pha chút hóm hỉnh tự giễu mình khi ông nói về
"vụng" và "xảo". Cấu trúc vần thơ liên hoàn. Thơ mang nội dung đạo lí với
cách nói thâm trầm, thấm thía. Khuyên mình hay nhắc khẽ ai?
“Người xảo thì ta vụng
Ấy vụng thế mà hay
Ta vụng thì người xảo
Ấy xảo thế mà gay!”
Vụng là vụng về, chất phác, chân thật. Xảo là xảo quyệt, tham lam, dối
trá. Vụng và xảo là nói về hai loại người trong xã hội xưa nay. Có bài thơ,
ông nói về khôn, dại trong thiên hạ:
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao "
Nơi vắng vẻ là sống với ruộng vườn, thoát vòng danh lợi. Chốn lao xao là
chốn bon chen, giành giật. Cũng là hai cách sống đối lập của hai loại người
trong xã hội.
Tám câu còn lại nói về một nguyên lý đạo đức, một tiêu trí về triết lý nhân
sinh. Ông sống giữa thời loạn lạc, vì thế điều ông nói là cả một sự chiêm
nghiệm lịch sử và xã hội. Là bài học về đạo lý và nhân sinh. "Đường đời rất
gập ghềnh, Lòng người rất hiểm nghèo". Ý tưởng không có gì mới lạ,
trước đó mấy nghìn năm, mấy trăm năm đã có người nói. Cái hay là ở hai
câu cuối bài thơ:
"Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực".
"Chí thiện" là tiêu chuẩn tuyệt đối về các sự lý ở đời. Biết sống đẹp và
hướng thiện cũng là chí thiện. Là quân tử, là kẻ sĩ phải là người chân chính.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và ứng xử như vậy. Vì thế ông mới được ngợi
ca là Ông thầy của cả một thời đại.
Đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay còn có bức đại tự sơn son thiếp
vàng với 4 chữ: "Như nhật trung thiên" - như mặt trời giữa bầu trời. Hồ Chủ
Tịch dạy cán bộ, đảng viên: "Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng",
phải "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư". Đó cũng là chí thiện vậy.