Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Một Quan Điểm Về Sống Đẹp - TỰA CỦA DỊCH GIẢ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.28 KB, 7 trang )

TỰA
CỦA DỊCH GIẢ

Tôi đã đọc nhiều cuốn viết về Nghệ Thuật Sống nhưng không cuốn nào có một
tầm quan trọng và làm cho tôi suy nghĩ nhiều bằng cuốn này.

Những cuốn khác do người Âu hay Mỹ viết đều chú trọng đến sự thành công, đưa
ra những qui tắt thực tế về cách luyện trí, luyện tinh thần, xử thế và làm việc, cho
nên tuy hữu ích thật nhưng không để lại nhiều dư âm trong hồn ta. Chúng ta có
cảm tưởng tác giả là những kĩ thuật gia – ngay cả André Maurois trong cuốn “Un
Art de Vivre” cũng vậy – và kĩ thuật của họ rất hợp lí, rất có hiệu quả, ta tin họ
như ta tin một kiến trúc sư trong việc xây nhà, tin một kĩ sư trong việc luyện thép,
và ta tự hứa sẽ rán theo họ, thế thôi. Họ không gợi cho ta một thắc mắc, một suy
tư nào cả, mà giá trị của một tác phẩm là ở chỗ phải gợi cho ta được những thắc
mắc và suy tư.

Cuốn này khác hẳn. Tác giả, Lâm Ngữ Đường, vượt lên trên tất cả kĩ thuật đó mà
cơ hồ ông cho chỉ là những chi tiết; ông muốn nhìn bao quát cả vấn đề SỐNG, đặt
một cơ sở cho vấn đề đó, mà hễ cơ sở đã vững rồi thì chi tiết chẳng cần vạch rõ
cũng thấy. Vì chỉ có Sống mới là quan trọng, mà nhiều người ngày nay quên hẳn
điều đó đi, quên rằng dù mình làm việc hay tiêu khiển, dù mình trau dồi tâm trí,
dựng nên những học thuyết triết lí, xã hội, kinh tế hay chính trị cũng chỉ để phục
vụ sự Sống, để duy trì đời Sống, cải thiện nó, làm cho nó phong phú lên, dễ chịu
hơn, cao đẹp hơn; tóm lại là chúng ta tìm cái Chân, cái Thiện, cái Mĩ không phải
vì cái Chân, cái Thiện, cái Mĩ mà vì sự SỐNG. Do đó nhan đề cuốn này trong
nguyên văn là The Importance of Living: Sự quan trọng của sinh hoạt.

Mỗi loại sinh vật có một cách sinh hoạt: thảo mộc có cách sinh hoạt của thảo mộc,
cầm thú có cách sinh hoạt của cầm thú, loài người cũng vậy. Cách sinh hoạt phải
hợp với bản chất của mỗi loại. Mà bản chất của con người không phải là cầm thú,
cũng không phải là thánh thần. Đành rằng trong lịch trình tiến hóa thời nào loài


người cũng muốn vươn lên cao hơn, muốn chế ngự được lòng mình, chế ngự được
thiên nhiên, muốn mọc cánh bay lên mà kết bạn với thiên thần, như Tôn Ngộ
Không trong truyện Tây Du kí; nhưng còn một thể xác sớm muộn gì cũng bị hủy
diệt, còn những nhu cầu vật chất như ăn uống, tình dục thì con người không thể
nào là Thánh được và nhất định phải có ích nhiều khuyết điểm, nhu nhược, mâu
thuẫn… Nhận chân được điều đó – người không phải là cầm thú cũng không phải
là thần thánh – thì mới có thể tìm một lối sống, dựng nên những học thuyết thích
hợp với con người được; như vậy mới là hợp tình hợp lí, nghĩa là hợp với tâm
tình con người và hợp với luật lệ thiên nhiên, chứ không phải hợp với những phép
diễn dịch, qui nạp… của các luận lí gia. Vì “lòng người vẫn có những lí lẽ mà lí
trí không sao hiểu nổi”. Bốn chữ “hợp tình, hợp lí” tóm tắc được tất cả triết lí
của họ Lâm. Bất kì cái gì, dù cao đẹp tới mấy, dù đúng phép luận lí tới mấy mà
không hợp tình hợp lí cũng là xấu.

Làm việc vốn là một hành động tôn nghiêm, nhưng nếu cặm cụi làm việc mà quên
ăn, quên ngủ, hóa quạu quọ, khắc nghiệt với người khác thì là quên mình, quên
người, là không hợp tình, hợp lí, là xấu.

Đề cao một lí tưởng để kiến thiết quốc gia, mưu hạnh phúc cho đồng bào là một
hành động rất cao đẹp, nhưng nếu vì mục đích đó mà gây ra những cuộc tàn sát
như Hitler đối với dân tộc Do Thái thì lại là không hợp tình hợp lí, là xấu.

Lâm Ngữ Đường bảo triết lí đó không phải là của ông mà của dân tộc Trung Hoa
vì nó tổng hợp, dung hòa được hai triết thuyết quan trọng nhất, có ảnh hưởng lớn
nhất của Trung Hoa, tức Khổng giáo và Lão giáo. Nó bàn bạc trong thơ văn
Trung Hoa, thấm nhuần đời sống Trung Hoa và ông dẫn ra rất nhiều cố sự cùng
danh ngôn để làm chứng cứ. Do đó, ngoài giá trị về phương diện mà người Pháp
gọi là Culture humaine (ta thường dịch ra là Học làm người), tác phẩm còn có
một giá trị lớn hơn nhiều về phương diện nghệ thuật, văn hóa. Đọc nó ta nhìn
được tổng quát cả nhân sinh quan của người Trung Hoa – và của người Việt ta

nữa – và những bạn trẻ thiếu căn bản về cổ học có thể có một nhận thức đại
cương đúng và gần đủ về triết học, nghệ thuật phương Đông. Cho nên theo tôi,
những cuốn khác chỉ bàn về Kĩ thuật Sống, riêng cuốn này mới xét về Nghệ thuật
Sống.

Về nguyên tắc “hợp tình hợp lí” thì tôi hoàn toàn đồng ý với tác giả1[1], nhưng
về chi tiết thì tôi thấy có nhiều chỗ tác giả đi quá xa và tôi đoán rằng nhiều độc
giả cũng như tôi, mười điều trong sách chỉ tin được bốn năm điều.

Nhưng chính nhờ chỗ đó mà tác phẩm mới có nhiều thú vị. Tác giả đã có lần hô
hào phục hưng thuyết Tính linh (expressionnisme)2[2] trong văn học, chủ trương
rằng “viết chỉ là để phát huy tính tình hoặc biểu diễn tâm linh” của mình, cho nên
phải cực kì thành thực, tự nhiên, rất ghét sự giả dối, tô điểm, phải nghĩ sao viết
vậy, không được giấu giếm, không sợ người cười chê, không sợ trái với lời thánh
hiền thời xưa. Vì vậy, ông coi ta như bạn thân, đôi khi cười cợt, đùa bỡn ta nữa.
Ta cần nhận ra được những chỗ đó, để nở một nụ cười đáp lại.

Ngay cả những khi ông nghiêm trang, hăng hái đả đảo một quan niệm mà từ xưa
ta vẫn tin là đúng, thì ta cũng nên tìm hiểu ông. Vì chúng ta không nên hẹp hòi mà
nghĩ rằng chỉ có ta mới hoàn toàn nắm được chân lí. Vả lại xét cho cùng, đọc một
tác giả đồng thanh đồng khí với mình, thú tuy thú đấy nhưng không lợi ích gì mấy;



chính những tác giả chủ trương ngược với ta mới bắt ta phải suy nghĩ, đặt lại vấn
đề, mới mở mang kiến thức của ta. Suy nghĩ kĩ rồi mà thấy chủ trương của ta vẫn
đúng thì ta càng vững tin ở mình hơn; ngược lại nếu thấy chủ trương của ta cần
phải bổ khuyết thì cái lợi càng lớn hơn nữa.

Nếu trong số độc giả có vị nào theo học thuyết Mặc Tử, nguyện “mòn trán long

gót” vì nhân loại, thì tất nhiên là tôi rất kính phục và tôi càng mong rằng những vị
đó có dịp đọc qua một vài chương trong cuốn này, chẳng hạn chương VI hay X.

Tôi nhớ có một lần sau hai năm chuyên tâm vào một công việc rất mệt trí đến nỗi
bệnh cũ của tôi trở nên nặng, tôi đành bỏ dỡ công việc, đem theo bản tiếng Pháp
(L’importance de vivre) của cuốn này về Long Xuyên dưỡng bệnh. Trong cảnh
nghỉ ngơi nhàn nhã như vậy tôi mới thưởng thức hết cái hóm hỉnh, sâu sắc của
Lâm và một chương tả nền trời xanh cùng tiếng chim hót đã làm cho tôi thấy vũ
trụ đẹp thêm lên bội phần: một dây mướp rũ từ cành xoài xuống đã gần tàn chỉ
còn mỗi một bông vàng rực đong đưa dưới gió, cảnh thực là bình thường, quê
mùa mà sao hôm đó tôi thấy vui lạ, rực rỡ lạ. Nhờ nó một phần mà trí óc tôi dịu
xuống và khi trở về Sài Gòn, tôi làm việc lại được.

Vậy, dù bạn không ưa triết lí hợp tình hợp lí của Lâm thì bạn cũng nên cất cuốn
này vào tủ, lúc nào có ra Vũng Tàu hay lên Đà Lạt nghỉ mát ít hôm thì mang nó
theo, biết đâu nó chẳng làm cho bạn thấy vũ trụ đẹp hơn mà cuộc du lịch của bạn
sẽ có hứng thú hơn, vì sách giúp ta hiểu đời mà đời cũng giúp ta hiểu sách.

Tinh thần phân tích, phê bình tuy là cần thiết trong việc đọc sách nhưng thiếu sự
cảm thông thì khó nhận được cái hay, cái đẹp mà tâm hồn ta chỉ khô khan lần đi
thôi. Ai cũng có thể viết một cuốn sách một trăm trang để phê bình một cuốn ba
trăm trang được; nhưng suy tư để nhận thấy dụng ý, nhân sinh quan của tác giả là
việc ít thấy, không phải vì nó khó mà ít ai chịu làm, ít ai chịu quên cái “ bản ngã”
của mình để tìm hiểu cái “bản ngã” của người. Đa số đau khổ của nhân loại do
đó mà ra cả. Lâm không ưa đạo Phật vì ông cho là nó “ bi thảm” quá, nhưng về
chủ trương “vô ngã” của đạo Phật thì chắc Lâm không phản đối. Đọc chương
XIV, tôi có cảm tưởng như vậy. Mà ông đã đem tinh thần “vô ngã” ra nói chuyện
với ta thì ta cũng nên đem tinh thần “vô ngã” ra nghe ông.

Tôi không cần giới thiệu nhiều về tác giả vì danh tiếng ông, người đọc sách nào

mà không biết.

Lâm Ngữ Đường (Lin Yutang), tên là Ngọc Đường, sanh năm 1895 ở Phước Kiến,
xuất thân trường đại học Thánh Ước Hàn rồi du học Âu Mĩ tại các trường đại học
Harvard, Iéna, Leipzig, chuyên về ngôn ngữ học, về nước làm giáo sư đại học Bắc
Kinh và làm chủ nhiệm, hoặc chủ biên ba tạp chí văn học, nổi danh nhất là tạp chí
Luận ngữ. Ông có hồi làm ngoại giao bí thư, sau thế chiến vừa rồi làm Trưởng
ban Văn Nghệ của Cơ quan Văn Hóa Liên Hiệp Quốc. Tư tưởng của ông nhiều khi
sâu sắc và văn lại rất dí dỏm (người Trung Hoa gọi ông là U mặc đại vương: ông
vua hài hước) cho nên rất nhiều người ưa đọc.

Ông ưa viết bằng tiếng Anh để giới thiệu văn hóa Trung Hoa với thế giới, đã soạn
trên mười lăm cuốn hoặc thuộc loại tiểu thuyết như bộ Moment in Peking, A leaf
in the storm, hoặc thuộc loại biên khảo như Lady Wu (về đời Vũ Tắc Thiên), The
Gay Genius (về đời Tô Đông Pha), hoặc thuộc loại nghị luận như My Country
and my People (bản dịch ra tiếng Hán nhan đề là Ngô thổ dữ ngô dân), The
importance of living… Vài tác phẩm của ông đã được dịch ra mười bốn thứ tiếng,
và cuốn The importance of living, đã đứng đầu trong số những sách bán chạy
nhất ở Mỹ luôn mười một tháng.

Chúng tôi tiết rằng không kiếm được nguyên văn bằng tiếng Anh của cuốn The
importance of living, đành phải dùng bản tiếng Pháp L’importance de vivre của
nhà Correa (1948) và bản tiếng Trung Hoa Sinh hoạt đích nghệ thuật do Việt
Duệ dịch, của nhà Thế giới Văn Hóa (1940). Bản tiếng Hoa đầy đủ, chép hết
những cổ văn, cổ thi Trung Hoa mà Lâm Ngữ Đường dẫn trong tác phẩm và nhiều
khi lại chép thêm bản dịch những bài đó của Lâm nữa. Bản tiếng Pháp có cắt bớt
nhiều đoạn và bỏ hẳn vài tiết.

Chúng tôi châm chước cả hai bản, cũng cắt bớt hoặc tóm tắt vì những lẽ dưới đây:
tác phẩm viết vào khoảng 1937, nên có đoạn nay không còn hợp thời; tác giả chú

ý viết cho người phương Tây đọc, nên đối với chúng ta, người phương Đông,
nhiều đoạn không cần thiết; sau cùng, như chúng tôi đã nói, tác giả theo thuyết
Tính Linh, cứ thuận tay mà viết, cốt tự nhiên, thân mật như trong cuộc nhàn đàm
giữa bạn bè, nên nhiều chỗ chúng tôi cho là rườm.

Vì vậy, bản này chỉ là một bản lược dịch. Nếu dịch trọn thì phải thêm khoảng trăm
trang nữa.

Mới đầu chúng tôi đã có ý chép thêm vào cuối sách những văn thơ chữ Hán để
một số độc giả có thể thưởng thức nguyên văn của cổ nhân; nhưng sau tính lại nếu
chép hết rồi phiên âm nữa thì sách này sẽ dày thêm ít nhất là trăm rưỡi trang, giá
sách sẽ khó mà phổ thông được. Cho nên chúng tôi chỉ lập một bảng ghi bằng chữ
Hán những tên người và tên tác phẩm Trung Hoa đã dẫn trong sách. Địa danh,
xét ra không quan trọng lắm, nên chúng tôi bỏ. Những chú thích ở cuối trang đều
là của chúng tôi.

Sài gòn, ngày 30-12-64

NGUYỄN HIẾN LÊ





Chú thích:

3[1] Trong tiết “Nhân sinh quan của tôi”, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: “Đạo nào cũng
phải hợp tình hợp lí (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng
hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài
người thích sống tập thể, không có của riêng”. (Hồi kí, trang 552).

4[2] Bản tiếng Anh chép là: Self-Expression, bản tiếng Hán chép là: 性灵.
(Goldfish)




×