Từ câu trả lời của chủ tịch hồ chí minh nghĩ về một quan điểm lớn trong tư
tưởng của người
Có người hỏi ông Nguyễn: Ông là người thế nào? Theo chủ nghĩa Cộng sản hay
chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Ông Nguyễn trả lời: Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là
sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng bác ái. Chủ nghĩa
Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có
ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước chúng tôi ( ). Tôi cố
gắng làm người học trò nhỏ của họ. Tôi chính là tôi ngày trước: một người yêu
nước”(1). Câu trả lời này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhiều sách, báo trích
dẫn, tuy nhiên một sự giải thích cụ thể các lớp ý nghĩa thì chưa thấy có. Theo tôi,
câu trả lời này của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một sự thâu gom nhữ
“Có người hỏi ông Nguyễn: Ông là người thế nào? Theo chủ nghĩa Cộng sản
hay chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Ông Nguyễn trả lời: Học thuyết Khổng Tử có ưu
điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm là lòng bác ái.
Chủ nghĩa Mác có ưu điểm là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn
Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với điều kiện nước chúng tôi
( ). Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ. Tôi chính là tôi ngày trước: một
người yêu nước”(1). Câu trả lời này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nhiều sách,
báo trích dẫn, tuy nhiên một sự giải thích cụ thể các lớp ý nghĩa thì chưa thấy có.
Theo tôi, câu trả lời này của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một sự thâu gom những
đặc điểm cốt yếu tư tưởng của Người về tiếp thu, phát triển văn hóa.
Câu trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được hiểu trên hai bình diện: bình diện
thứ nhất là nguyên tắc tiếp thu cái bên ngoài, cụ thể là các học thuyết, tôn giáo,
chủ nghĩa; bình diện thứ hai là cách nhìn nhận về bản thân. Từ hai bình diện đó,
chúng ta có thể liên tưởng tới quan điểm phát triển nền văn hóa dân tộc.
Ở bình diện thứ nhất, bằng việc sàng lọc những tinh hoa của các học thuyết, tôn
giáo, chủ nghĩa, nói được cái cốt yếu, cái hạt nhân của mỗi học thuyết, chủ nghĩa
ấy như: tu dưỡng đạo đức, lòng bác ái, phương pháp biện chứng, chính sách phát
triển, Người muốn bày tỏ quan điểm: tiếp thu cái bên ngoài là phải sàng lọc, lựa
chọn, tiếp thu cái chính yếu, tốt đẹp. Mỗi học thuyết, mỗi chủ nghĩa luôn chứa
trong nó nhiều đặc điểm, nội dung, không phải chỉ một nội dung thuần túy, dù đó
là cái cốt yếu. Vậy nên, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận diện những đặc điểm nêu
trên phải hiểu là Người vừa (đọc rất nhiều) hiểu các học thuyết, chủ nghĩa, vừa đã
chọn lọc để tiếp thu làm giàu cho tư tưởng của mình. Đấy là điều chỉ xảy ra đối
với những bộ óc siêu việt, mà với trường hợp Hồ Chí Minh, GS. Mai Quốc Liên
đã gọi tên là “một bộ lọc vĩ đại”(2). Tất nhiên ở đây tôi chỉ mới giới hạn về việc
tiếp thu cái cốt yếu của 4 học thuyết, tôn giáo, chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói ra ở câu trên, chứ trên thực tế, việc tiếp thu và thông qua hành động loại
suy của Người còn được thể hiện rất nhiều như: đối với việc tiếp thu Phật giáo (tư
tưởng từ bi bác ái, tinh thần bình đẳng, nếp sống giản dị, coi trọng lao động (Phật
giáo Thiền tông: “nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực”)), triết học và tư tưởng
phương Tây (tư tưởng dân chủ và tiến bộ, coi trọng tự do con người: Tuyên ngôn
1776 của nước Mỹ, tư tưởng của Rút xô, Môngtexkiơ) vv… Dĩ nhiên khi Người
đã đề ra cho mình quan điểm tiếp thu cái chính yếu, tốt đẹp thì Người đã không
câu nệ vào hình thức diễn đạt mà chú ý vào bình diện tư tưởng, hay nói khác đi đó
là Người đã thực hành phương châm ứng xử “đắc ý vong ngôn” khi tiếp thu cái
bên ngoài của người xưa vốn xuất phát trong luận thuyết của Đạo giáo (Trang Tử).
Điều này được thể hiện một cách nhất quán trong nói (nói với cán bộ, chiến sĩ, với
trí thức, với nông dân, kể cả trong giao tiếp hàng ngày) và viết (viết báo, viết thư,
viết các thể loại văn, thơ) của Người. Chẳng hạn như nói về tư tưởng lấy dân làm
gốc (“dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” của Mạnh Tử) và sức mạnh của
dân (nước có thể đẩy thuyền có thể lật thuyền, ý của Khổng Tử, sau này Nguyễn
Trãi viết: “có lật được thuyền mới hiểu sức dân như nước”): “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn
kết của nhân dân”; nói về tư tưởng khoan dung của nhà Phật: “Sông to, biển rộng
thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái
đĩa cạn thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng của nó nhỏ hẹp”
Bình diện thứ hai, có hai vấn đề, đó là: vấn đề “tôi là ai trong quan hệ với các vị
tiền bối” và vấn đề “thực chất tôi là ai”. Từ chỗ nhìn nhận về 4 học thuyết, chủ
nghĩa, Người nói về mình: “tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của họ”. Đây là lời
nói có tính khiêm nhường, nhưng không hoàn toàn, bởi khi xem xét ở khía cạnh
khác, phẩm chất trung thực của Hồ Chí Minh lại nổi lên. Trong khoa học, một
thực tế khách quan là, một nhà khoa học lớn suốt đời theo đuổi chân lý, cố nhiên
phải phát biểu chân lý ấy bằng nhiều công trình, Người ấy sẽ đào tạo ra các học trò
theo trường phái của mình, phát triển tư tưởng của mình lên tầm cao mới. Nhưng,
trong khoa học lại không thể có một người nhận mình là học trò của một người vĩ
đại trong khi đã không tuân theo tôn chỉ khoa học của người đó. Vậy nên, ở đây
khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là muốn làm người học trò nhỏ thì cũng là rất trung
thực (bởi vì mục đích của Người là tìm con đường tư tưởng để cứu nước chứ
không phải làm khoa học). Người chọn lọc cái ưu điểm của mỗi học thuyết để phát
triển tư tưởng của mình. Người là học trò của Mác, Ăng ghen, Lê nin, nhưng
không phải là học trò thuần túy tiếp thu máy móc tư tưởng của họ. Người nhìn
nhận học thuyết Mác xít rồi đối chiếu với thực tiễn cách mạng Việt Nam để tìm ra
hướng đi. Riêng luận điểm "Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc
vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước" đã là một
đóng góp vĩ đại cho học thuyết Mác xít thời hiện đại, bởi vì học thuyết Mác xít
cho rằng, giải phóng dân tộc chỉ thành công khi giải phóng giai cấp, các dân tộc bị
áp bức chỉ giải phóng được mình khi cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp ở chính
quốc thắng lợi. Như vậy có thể thấy, ở đây, một mặt Người khiêm nhường nhận là
học trò (tức tầm tư tưởng, trí tuệ không sánh bằng Khổng Tử, Giê su, Mác, Ăng
ghen, Lê nin, Tôn Trung Sơn), một mặt Người đã trung thực với bản thân. Vậy
nên khi giải quyết câu hỏi: “Hồ Chí Minh là ai khi học tập các học thuyết, chủ
nghĩa?” thì theo tôi, chỉ có một câu trả lời duy nhất đó là: Hồ Chí Minh là một
người khác - khác so với học trò của các vị tiền bối đó và vì …“vô tiền khoáng
hậu”.
Khi Người nói “tôi chính là… một người yêu nước”, thì ẩn đằng sau câu nói ấy,
chúng ta phải hiểu là Người đã nhận thấy và tự hào về truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, về bề dày văn hóa (không phải đất nước nào cũng có bề dày văn hóa, kể
cả những đất nước nền kinh tế, khoa học phát triển). Nói tôi là người yêu nước
nghĩa là đứng trên lập trường dân tộc, lấy dân tộc làm gốc, trên cơ sở cái dân tộc
tiếp thu cái bên ngoài để làm giàu thêm. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải liên hệ với
phát biểu của Người ở những câu kế trên để thấy tại sao chúng ta cần phải tiếp thu
bên ngoài và tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại phải ra đi tìm đường cứu nước vào
những năm đầu thế kỷ XX.
Có thể nói rằng, trước khi thực dân Pháp vào Việt Nam, đất nước chúng ta vẫn
chỉ quen thuộc với tâm tính Á Đông, trong đó đất nước có quan hệ mật thiết nhất
với chúng ta là Trung Hoa. Vì chúng ta gần gũi với Trung Hoa (ở đây hiểu về khía
cạnh tâm tính, thế giới quan), nên dân tộc chúng ta không bị xáo trộn nhiều khi
Trung Hoa xâm lược, đặc biệt là về cấu trúc xã hội. Cũng vì thế nên chúng ta đánh
thắng các cuộc xâm lược của Trung Hoa trong khi vẫn dùng những tiềm lực cũ
(như phương pháp đấu tranh, phương tiện thiết bị quân sự, lực lượng quân đội… ).
Nhưng đến khi người Pháp vào nước ta thì nước ta bị xáo trộn nhiều, các chí sĩ
nhiệt thành bế tắc trong lựa chọn con đường cứu nước (bởi vì một lí do cơ bản là
chúng ta không thể cứu nước theo con đường và cách thức cũ được nữa). Giữa lúc
bế tắc đó, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường đến với đất nước kẻ thù để tìm
hiểu họ. Đây là một hành động vĩ đại vì Nguyễn Ái Quốc vốn quen với Nho học,
lại nhỏ bé trước những bậc cha anh như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… tìm
một con đường đi, trong khi tương lai thì chưa thể hình dung được. Nhưng cần
phải chỉ ra cho rõ ràng rằng, Nguyễn Ái Quốc ra đi đến đất nước kẻ thù không
phải chỉ để tìm hiểu họ, biết họ để phục vụ cho mình, hay nói là “cứu nước” nhưng
đang rất mơ hồ, chung chung, chưa xác định được đường hướng (vì lúc này Người
mới hai mươi tuổi). Cái vĩ đại của Nguyễn Ái Quốc ở đây là muốn ra đi để đưa cái
mới, cái tốt đẹp về cho dân tộc trên cơ sở nền văn hiến và lịch sử văn hóa dân tộc
đã hun đúc từ ngàn đời. Nghĩa là phải chọn cái dân tộc làm gốc, tiếp thu những cái
tốt đẹp bên ngoài là để làm giàu thêm bản sắc, làm nên những người Việt mới
(tâm thức vẫn mãi mãi là tâm thức người Việt) chứ không phải những người Việt
khác (khác với truyền thống, quay lưng với truyền thống). Đây là một tư tưởng lớn.
Có tìm hiểu được nền văn hóa, văn minh mới, có làm cho người dân nước Việt
bấy lâu bị che kín tầm nhìn thấy được khoảng trời khác để tiếp thu, chuyển hóa
thành con người mới thì người Việt mới tự giải phóng được cho mình. Dĩ nhiên là
nếu tiếp thu mà trở thành con người khác với truyền thống thì chúng ta sẽ gần với
kẻ thù, là anh em với kẻ thù, có nghĩa là chúng ta không cần phải giải phóng dân
tộc nữa.
Thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh có câu trả lời trên là sau Cách mạng Tháng 8
- 1945, lúc chúng ta đã có Đảng Cộng sản lãnh đạo, chúng ta đã có chính quyền,
nhưng tại sao Người vẫn không nói mình là người cộng sản? Ngoài việc để giữ
hòa khí với Tàu Tưởng, trong khi Tàu Tưởng có khả năng hợp tác với quân Pháp,
lại trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động bất lợi cho cách mạng Việt Nam, thì
theo tôi, bởi vì hơn hết, Người hiểu được dân tộc (và hiểu được chính bản thân
mình, bản thân là một người ái quốc, đứng trên lập trường chủ nghĩa yêu nước,
không trở thành một người của trường phái nào), Người tự hào về truyền thống
của dân tộc (trong đó nổi bật là truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết cộng
đồng), Người phân biệt được sự khác biệt giữa dân tộc với cái bên ngoài, kể cả với
Chủ nghĩa Cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở hiểu dân tộc - hiểu văn hóa,
tâm thức dân tộc kết tinh qua hàng nghìn năm lịch sử, khác với phương Tây, nên
đã phát biểu một luận điểm hết sức quan trọng đó là các nước bị áp bức, bóc lột
cũng có thể tự giải phóng mình khỏi ách thống trị của thực dân và Người đã đưa ra
quan điểm: cách mạng ở Việt Nam sẽ tiến hành giải phóng dân tộc kết hợp với giải
phóng giai cấp. Phương Tây coi trọng cá nhân, cá nhân là trung tâm luận, người
Việt và Á Đông nói chung lại coi trọng cộng đồng, gia tộc, coi trọng nhân cách. Vì
coi trọng nhân cách, trọng cộng đồng nên người Việt coi cách mạng cũng là một
bộ phận tạo thành nhân cách (hành đạo), tức xét chính trị trong đạo đức, coi đạo
đức có vai trò cải tạo thế giới (Phương Tây lại đặt chính trị ngoài đạo đức, chính
trị là một hoạt động tổ chức xã hội). Điều này lí giải tại sao ở Việt Nam lại có
những bà mẹ như Mẹ Thứ hy sinh 10 người con cho cách mạng, lại có hàng vạn
người tình nguyện ra chiến trường dù biết là ra đi khó có ngày trở lại… Đây có thể
cũng là nguyên nhân cơ bản để Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm: làm
chính trị là thực hành đạo đức, “học chủ nghĩa Mác - Lê nin để sống với nhau có
nghĩa có tình” (3), cho nên ở Việt Nam mới có chuyện là giáo dục bằng tấm gương,
một tấm gương sáng còn hơn vạn kinh sách. Đó cũng là một trong những lí do
Chủ tịch Hồ Chí Minh âm thầm cắt dán trên một ngàn tấm gương “người tốt, việc
tốt” giữa lúc mối quan hệ anh em XHCN không đồng thuận.
Từ quan điểm văn hóa phải luôn tiếp biến với bên ngoài, phải lấy cái dân tộc
làm gốc, ta mới lí giải vì sao hai kẻ thù hùng mạnh là Pháp và Mỹ lại phải chịu
đầu hàng một dân tộc nhỏ bé, nền kinh tế yếu kém, lạc hậu, khoa học - kỹ thuật
chưa phát triển. Chúng ta chiến thắng hai kẻ thù đế quốc khi chúng ta có Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo chúng ta mới thực hành được
cách mạng giải phóng dân tộc. Nhưng, Đảng chỉ là vạch ra đường lối, Đảng chỉ
chỉ đường (đấy là cái mà trước đây chúng ta chưa có), cái quyết định thắng lợi là
tinh thần dân tộc, là tâm thức trong mỗi người con Việt Nam (Dù có phải đốt cháy
cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do độc lập - “câu chuyện” chỉ có
ở Việt Nam). Đó là cái bất diệt. Mỹ không thể hiểu vì sao một cường quốc đứng
đầu thế giới, vũ khí tối tân lại thua trận tại Việt Nam trong khi Mỹ rất hiểu về chế
độ Cộng sản chủ nghĩa. Điều này có thể giải thích là do Việt Nam không chỉ đánh
Mỹ bằng chế độ Cộng sản mà bằng truyền thống lịch sử hàng ngàn năm. Chủ
nghĩa Cộng sản chỉ là cái cư trú, cái mới đến, cái hòa vào tâm thức dân tộc suốt
hàng ngàn năm ở Việt Nam, làm tốt đẹp thêm con người Việt Nam. Nếu có thể nói
về Chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam thì chỉ có thể nói Chủ nghĩa Cộng sản - Việt
Nam mà thôi, nghĩa là vẫn là tâm thức người Việt Nam, giống như ngày nay người
Việt Nam có sang Âu, sang Mỹ thì cốt tủy vẫn là người Việt Nam: cách đi đứng,
kiểu tư duy, kiểu lựa chọn…
Những lí giải trên giúp ta hiểu được vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhận mình
là người yêu nước (mặc dù Người trước sau vẫn là một chiến sĩ cộng sản; người
yêu nước và chiến sĩ cộng sản trong con người Hồ Chí Minh hoàn toàn không mâu
thuẫn nhau) và suốt đời Người vẫn là một người yêu nước nhiệt thành. Người yêu
nước và hiểu dân tộc đến nỗi Người luôn chuyển hóa kinh sách, lý luận thành cách
nói hàng ngày của người Việt.(4). Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường
cứu nước chỉ với hành trang là VĂN HÓA, khi trở về lãnh đạo đất nước, người
thanh niên năm ấy, với tên gọi Hồ Chí Minh, cũng luôn yêu cầu phải thực hành
văn hóa, vì văn hóa. Điều này chứng tỏ một quan điểm quan trọng trong tư tưởng
của Người đó là: lấy văn hóa làm gốc, văn hóa là mục đích, là động cơ để thực
hành chính trị, chính trị và tổ chức xã hội nói chung là để phục vụ cho văn hóa.
Sau này có một người đã hiểu Chủ tịch Hồ Chí Minh và đã viết công trình Văn
hóa và đổi mới, đó là Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Công trình xuất bản vào
những năm cuối đời như một di huấn quan trọng. Cố Thủ tướng viết: “Đổi mới
phải bắt nguồn và bắt rễ từ mảnh đất văn hóa, truyền thống văn hóa của dân tộc,
tinh hoa văn hóa của thời đại… Từ mảnh đất văn hóa đó, sự nghiệp đổi mới, bao
quát mọi lĩnh vực từ kinh tế, xã hội đến chính trị và hệ thống chính trị của nước ta,
ngày càng mở rộng và phát triển theo chiều cao và bề sâu”(5). Theo tôi đây là
những đóng góp, bổ sung quan trọng cho học thuyết Mác xít vì học thuyết Mác xít
chưa nhìn nhận thực đúng vai trò của văn hóa. Đấy cũng là lí do khiến triết gia
Pháp Jean Paul Sartre không tán thành chủ nghĩa Mác về quan điểm văn hóa mặc
dù ông tán thành quan điểm phát triển./.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh truyện, Trương Niệm Thức dịch, Nxb Tam Liên, Thượng Hải,
tháng 6-1949, dẫn theo: Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với
Nho giáo, website: . (xin chú thích thêm: từ sau bản
dịch năm 1949, các bản xuất bản sau đó của Những mẩu chuyện về đời hoạt động
của Hồ Chủ Tịch, không có đoạn Bác Hồ trả lời nhà báo nêu trên).
2. Mai Quốc Liên, Tư duy Hồ Chí Minh, Tạp chí Văn hoá Hà Tĩnh, số 132,
2009, tr.2.
3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.34.
4. Xem thêm: Nguyễn Mạnh Hà, Đi xa để tái sinh mãi mãi - một cách nhìn về
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, số 315, 2010.
5. Phạm Văn Đồng, Văn hóa và Đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994,
tr.103.