Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Quá trình hình thành giáo trình đọc và hiểu giá cổ phiếu trong quy tắc cho nhận của thị trường chứng khoán p2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.75 KB, 10 trang )

cáo lợi tức. Kế tiếp ta cũng dựa vào báo cáo hằng năm để có được số cổ
phần đang lưu hành. Lấy lợi tức sau thuế chia cho tổng số cổ phần ta có lợi
tức cho mỗi cổ phần EPS = earning per share. Kế đến ta xem trên báo giá
hiện tại của cổ phần đang khảo sát là bao nhiêu, rồi lấy giá cổ phần đó chia
cho lợi tức trên mỗi cổ phần EPS.
Thế là ta có được tỉ lệ P/E. E ở đây tức là EPS.
Để nắm rõ vấn đề, ta thử tính tỉ lệ P/E của cổ phần công ty SACOM vào
năm 2000 như dưới đây:
Năm 1999 lãi sau thuế của SACOM là 25.500.000.000 đồng, số cổ phần
đang lưu hành của SACOM là 12.000.000 cổ phần. Giá cổ phần này vào thời
điểm 6-2000 là 15.000 đồng. Ta có:
EPS lợi tức mỗi cổ phần = 25.500.000.000 đ / 12.000.000 = 2.083,3 đ
PE Giá/lợi tức = 15000đ / 2083,3đ = 7,2
Nhưng vào giữa tháng 12-2000 giá cổ phiếu SACOM là 30.000 đồng, tỉ lệ
P/E của cổ phần này vào thời điểm đó được tính toán như sau:
P/E Giá/Lợi tức = 30.000đ / 2.083,3 = 14,4
Nếu có thể so sánh nhiều P/E khác ta sẽ có nhiều điều rút ra lý thú và bổ ích
cho các đánh giá về đầu tư mà ta đang quan tâm. Tất nhiên với điều kiện là
hệ thống sổ sách phải thể hiện trung thực, thông tin cần kịp thời và tin cậy.
Đây là những nội dung hội nhập không thể thiếu được trong quá trình xây
dựng một TTCK công bằng, trung thực và lành mạnh để làm phương tiện
phát triển kinh tế thị trường.
Khái quát về quỹ đầu tư: Một định chế đầu tư trung gian ưu việt
Khi tìm hiểu về thị trường chứng khoán TTCK, ta thường nghe nói đây là
một loại thị trường chuyên sâu và cao cấp. Điều đó không sai, tuy nhiên
người đầu tư đừng vội băn khoăn. Một khi thị trường đã hội nhập, những
thông tin phổ cập sẽ nhanh chóng cung cấp cho chúng ta kiến thức cơ bản và
nhiều phương thức đầu tư để người quan tâm chọn lựa. Một thị trường hoạt
động ổn định và tốt luôn duy trì một hệ thống "tiện ích" hiệu quả để làm hạ
tầng và đặt cơ sớ phát huy niềm tin. Trong đó có các định chế trung gian
được "hoà mạng" trong một hệ thống luật lệ và quy chuẩn rõ ràng.


Ta đã biết, người đầu tư dù bất cứ dạng nào khi đã tham gia làm ăn trading
trong TTCK đều phải thông qua và được trợ giúp bởi các nhà môi giới
broker hoặc kinh doanh dealer chứng khoán. Tuy nhiên, dù được thông tin
và tư vấn đến đâu chăng nữa nhà đầu tư vẫn được xem như là người tự quyết
định tối hậu, và do đó hiệu quả đầu tư của họ xét cho cùng lệ thuộc vào các
điều kiện và phẩm chất cá nhân. TTCK lại tập hợp cơ man nào là các sản
phẩm securities đa ngành, thế nên, cho dù người đầu tư có tập trung vào một
lãnh vực nào thì cũng không làm sao nắm vững hết các chiều hướng chuyển
biến một cách ngọn ngành. Đa số người đầu tư lại là những người không
chuyên nghiệp. Một số nhà đầu tư khác, nhất là nhà đầu lớn phải thuê các cố
vấn riêng. Những nhà đầu tư vì lý do nào đó không thể tự quản lý việc mua
bán trong các danh mục của mình, họ có thể mở các trương mục uỷ thác
phân quyền advisory account, hoặc những trương mục uỷ thác toàn quyền
discretionary account tại các nhà môi giới brokerage. Nhưng còn một định
chế rất tiện lợi khác giúp các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư nhỏ, thực
hiện đầu tư tốt nhất vào TTCK đó là các quỹ đầu tư.
Chuyên đề này cho chúng ta một hiểu biết cần thiết về cách đầu tư này.
Trước tiên có thể nói ngay được đây là cách "đầu tư vào các quỹ đầu tư".
Người đầu tư không hưởng lợi trực tiếp từ các cổ phần trái phiếu được mua
bán trên TTCK mà họ sẽ chia sẻ hiệu quả do một quá trình mua bán chứng
khoán tập trung theo "ngọn cờ" của quỹ này. Hoạt động này không khác nào
mua cổ phần công ty; chỉ khác là công ty này chuyên làm ăn trên TTCK.
Gọi là "quỹ đầu tư" là cách nhận dạng theo cơ cấu bản chất và mục đích. Về
hình thức hoạt động, người ta có khuynh hướng gọi đó là các "công ty đầu
tư". Một công ty đầu tư có thể được tổ chức theo cấu trúc cổ phần
corporation hoặc một tổ hợp vốn uỷ nhiệm trust. Loại tổ hợp vốn này được
chế định bằng luật theo đó tài sản được uỷ nhiệm quản lý cho các cá nhân
hay định chế quản lý chuyên nghiệp trustee. Đảm nhận nhiệm vụ này ở Mỹ
có các công ty quản lý uỷ thác trust corporation hoặc các sở quản lý uỷ thác
trust department trong các ngân hàng thương mại, họ hưởng phí theo một

bách phân hàng năm trên tổng tài sản, thường là 1%.
Các công ty đầu tư investment company là phương tiện để các nhà đầu tư
đưa các khoản tiền của họ vào để có được yếu tố đầu tư đa dạng và điều kiện
quản lý chuyên nghiệp. Nếu nó được tổ chức theo dạng công ty cổ phần,
việc quản lý sẽ do một hội đồng quản trị directors đảm nhận, khác với loại tổ
hợp vốn uỷ nhiệm như đã phân tích ở trên.
Người đầu tư được lợi gì khi tham gia vào các công ty đầu tư? Trước hết và
quan trọng hơn cả là khả năng đầu tư đa dạng. Một cá nhân thường thường
bậc trung với số vốn hạn chế khó có thể đa dạng hoá tối ưu danh mục đầu tư
của mình. Nhưng bằng phương thức kết hợp vốn cùng với nhiều người khác
trong các công ty đầu tư, cá nhân đó có điều kiện chia phần lợi trong một tập
hợp các chứng khoán được đa dạng một cách tối đa.
Lợi ích khác do các công ty đầu tư mang lại là trình độ quản lý chuyên
nghiệp. Nhiều nhà đầu tư nhỏ hoặc ở mức trung bình thường khó đạt hiệu
năng quản lý các hoạt động đầu tư của mình một cách khôn ngoan nhất, họ
cũng không có khả năng hoặc thấy không còn có lợi nếu phải trả các khoản
phí cần thiết để "mua" sự quản lý chuyên nghiệp riêng cho mình. Bằng cách
chung vốn tập thể vào các quỹ đầu tư, những cá nhân này có thể yên tâm sẽ
được các nhà điều hành chuyên nghiệp quản lý đầu tư của mình, với một chi
phí thấp hơn nhiều trường hợp họ phải tự lo một mình.
Một lợi ích nổi bật nữa của các công ty đầu tư là các cổ phần góp vốn vào
quỹ này có tính thanh khoản. Điều này có nghĩa là nếu nhà đầu tư muốn rút
lui khỏi tổ chức đầu tư này họ có thể bán lại phần tài sản của họ với một giá
phải chăng để chuyển thành tiền mặt trong một thời gian ngắn. Do các
chứng khoán mà các công ty này mua bán thường thuộc những loại đầu tư
có điều kiện bán nhanh nhất, cho nên những người mua cổ phần công ty đầu
tư không phải lo bị chôn vốn. Họ có thể thực hiện thanh lý việc nắm giữ của
họ vào bất cứ ngày nào có giao dịch, ở mức giá được công bố hiện hành và
nhận tiền sau một khoảng thời gian qui định, thường là một tuần. Việc tính
toán giá cổ phần của quỹ đầu tư rất đơn giản vì tổng tài sản của quỹ đầu tư

hầu hết là các chứng khoán có độ lưu hoạt cao, giá của nó được cập nhật vào
sau mỗi phiên giao dịch, dựa vào TTCK.
Giới thiệu khái lược như vậy để ta thấy khả năng hấp dẫn và thuyết phục mà
công cụ này có thể đem lại, đặc biệt cho những người đầu tư bậc trung và
nhỏ hoặc những người chọn đầu tư theo thế thủ. Tuy nhiên, tại các nước có
cơ chế thị trường phát triển, đây là tổ chức trung gian đầu tư thu hút rất đa
dạng các giới đầu tư.
Trong chừng mực nào đó, ta có thể hiểu những người đầu tư vào các công ty
đầu tư khác với những người đầu tư vào TTCK, đồng thời cũng không giống
hoạt động tiết kiệm hoặc mua trái phiếu. Xét về mặt thuận tiện, độ tin cậy và
sự hấp dẫn của chúng, nhất là để thu hút những nguồn tiết kiệm nhỏ, ta thấy
khó có một hình thức đầu tư thay thế nào tốt hơn. Ngoài ra các quỹ đầu tư
còn là định chế có thể giúp gia tăng giao dịch trên TTCK.
Vì lý do đó mà các cơ sở pháp lý ban đầu của việc thiết lập thị trường chứng
khoán tại Việt Nam đã sớm đưa loại tổ chức này vào các quy định cơ cấu.
Tìm hiểu một cách có hệ thống về các quỹ đầu tư như vậy là điều bổ ích và
cần thiết.
Các loại Quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là một tổ chức đã được xã hội thừa nhận rộng rãi. Lịch sử hình
thành các quỹ rất gần với ý nghĩa là để đáp ứng nhu cầu xã hội hoá đầu tư,
diễn tiến theo một quá trình chọn lọc, được bổ sung hoàn thiện dần để ta có
ngày nay các quy chuẩn vận hành khoa học. Loại hình này phát triển rất hiệu
quả tại Hoa Kỳ và được hệ thống bằng một bộ luật ban hành từ năm 1940.
Đây là căn cứ tham khảo cho hầu như tất cả các quỹ đồng dạng trên thế
giới.
Trước khi chúng ta tìm hiểu sâu hơn vào các loại quỹ đầu tư, để dễ theo dõi,
cần có vài hiểu biết làm cơ sở.
Thứ nhất, bất kỳ quỹ đầu tư nào cũng có một điểm chung, chúng đều là các
trung gian danh mục đầu tư portfolio intermediaries. Việc của chúng là thu
nạp tiền của quần chúng góp vào và thay mặt quần chúng đem tiền đó đi đầu

tư. Theo suy nghĩ của quần chúng, những nhà quản lý danh mục của một
quỹ đầu tư có khả năng sẽ sắm vai giỏi hơn một nhà đầu tư trung bình trong
thị trường - Đó là một trong những lý do quan trọng giải thích sự đón nhận
nhiệt tình của quần chúng trước những tổ chức được xem là giỏi xoay xở"
này.
Thứ hai, khuynh hướng gọi chung chúng là "quỹ" fund. Thực ra, bản chất
của các quỹ này là huy động vốn để tạo thế mạnh tập trung và lâu dài vì
động cơ doanh lợi, cho nên chúng được liệt vào dạng và được chế định như
các doanh nghiệp. Đây là lý do để ngay từ đầu người ta gọi chúng là "công
ty đầu tư" investment company. Xin được mở ngoặc để lưu ý chúng ta
không nên lẫn lộn với thuật ngữ "investment banker" là dạng ngân hàng đầu
tư chuyên bảo lãnh phát hành chứng khoán. Ngoài ra, còn có sự khác nhau
cơ bản giữa các công ty đầu tư hay quỹ đầu tư là tính có cần thiết duy trì một
bộ máy quản lý management hay không. Những loại có duy trì bộ máy để
quản lý công việc hằng ngày, chẳng hạn các quỹ mở và quỹ đóng - ta sẽ tìm
hiểu sau - lại được gọi thêm một tên khác là "management company", hay
đầy đủ hơn là "management investment company". Tiếng Việt có thể tạm
dịch là "công ty đầu tư chuyên nghiệp".
Trong quá trình tiếp cận, do thói quen và để cho thuận tiện, người ta thường
gọi chung một cách phổ biến là quỹ đầu tư hoặc công ty đầu tư cho tất cả các
loại. Nhưng khi nghe đến quỹ hỗ tương thì đó lại chỉ là một dạng đặc thù của
công ty đầu tư chuyên nghiệp.
Công ty phát hành chứng chỉ có giá mặt
Loại công ty đầu tư này phát hành các chứng chỉ thuộc dạng nợ, chào bán
theo một mức lãi mặc định. Một chứng chỉ có giá mặt face-amount
certificate thể hiện bản chất như một hợp đồng giữa người đầu tư và người
phát hành, trong đó người phát hành bảo đảm sẽ trả một khoản tiền cụ thể
được ghi cho người đầu tư vào một ngày nhất định trong tương lai. Các
chứng chỉ này thường được mua theo cách trả góp định kỳ, nhưng cũng có
thể bằng cách trả trọn một lần. Người mua chứng chỉ phải trả một khoản phí

bán và phí quản lý quỹ. Các chứng chỉ có thể được hoàn lại trước kỳ đáo hạn
và được tính theo ngang giá bỏ cuộc surrender value – theo quy định giống
như trong ngành bảo hiểm. Ngày nay do sự cạnh tranh của nhiều định chế
đầu tư thay thế khác hấp dẫn và thuận lợi hơn nên loại chứng chỉ có giá mặt
này không còn phát huy tác dụng trên các thị trường hiện đại.
Quỹ đầu tư uỷ thác theo đơn vị
Quỹ đầu tư uỷ thác theo đơn vị UIT - Unit Investment Trust là dạng được
thành lập theo một khế ước indenture, hay một công cụ tương đương về mặt
pháp lý và được giám sát thừa uỷ nhiệm bởi một cá nhân hay tổ chức thường
là tổ chức. Việc lập quỹ chứng khoán ban đầu sẽ được một cố vấn đầu tư thu
xếp gộp vào trong một danh mục, rồi phân ra thành các đơn vị unit để bán
cho người đầu tư, thông qua các nhà môi giới. Các đơn vị như vậy thường
được bán theo giá trị tròn 1.000 USD ở Mỹ trong lần phát hành đầu tiên. Các
nhà môi giới bảo lãnh phát hành tương đồng thời là người duy trì hoạt động
mua đi bán lại các đơn vị đó. Giá cả của các đơn vị lại tuỳ thuộc vào biến
động giá cả chứng khoán trong danh mục mà quỹ này nắm giữ. Quỹ đầu tư
uỷ thác theo đơn vị chỉ phát hành các chứng khoán khả hoàn redeemable
securities - chính là các unit, mỗi unit của quỹ này mang một khoản lợi
không chia tương đương với các chứng khoán cơ sở mà nó đại diện. Đó là
phần mà người đầu tư được hưởng. Người mua các đơn vị đầu tư này phải
trả một khoản phí ban đầu cho người môi giới bán, thường là 4%. Chính
khoản phí cao như vậy mà các nhà đầu tư ngắn hạn thấy không có lợi khi
đầu tư vào loại quỹ này. Danh mục đầu tư của quỹ nói chung gần như được
duy trì cố định theo chiều dài tồn tại của nó, chính vì vậy sự quản lý điều
hành danh mục đầu tư hằng ngày trở nên không cần thiết. Do đó thay vì phải
tự xoay xở quản lý manage, người ta chỉ cần thuê giám sát supervise là đủ và
việc này do các trustee đảm nhận.
Các đặc điểm chủ yếu để các quỹ được xem là một tổ chức đầu tư uỷ thác
theo đơn vị, tách biệt với dạng quỹ đầu tư khác, được xác định như sau:
- Các UIT không có hội đồng quản trị B.O.D

- Các UIT không thuê chuyên viên phụ trách về đầu tư và
- Các UIT có danh mục đầu tư tĩnh, không mua bán chứng khoán theo cách
năng động.
Danh mục đầu tư của các quỹ đầu tư uỷ thác UIT thường sử dụng chứng
khoán cơ sở là các trái phiếu công ty, trái phiếu địa phương và trái phiếu
chính phủ.
Công ty đầu tư chuyên nghiệp
Loại quỹ đầu tư điển hình và phổ biến nhất hiện nay là các công ty đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp management company. Có hai loại công ty đầu
tư chuyên nghiệp. Loại thứ nhất để ngỏ cơ cấu vốn và cổ phần gọi là "công
ty đầu tư mở" open-end. Loại quỹ mở này có đặc trưng với việc phát hành
các cổ phần khả hoàn redeemable share - công ty mua lại. Loại thứ hai là
công ty đầu tư đóng closed-end investment company. Các cổ phần loại quỹ
đóng không thể bán lại cho công ty mà sẽ được mua bán trên thị trường như
các loại chứng khoán công ty.
Lý do để người ta gọi là "management company" bởi vì công việc đầu tư
loại này được quản lý chuyên nghiệp theo một danh mục gồm những chứng
khoán phù hợp với mục tiêu đã quy định trong các văn tự thành lập. Mỗi
ngày, thường là vào cuối các phiên giao dịch thị trường, công ty đầu tư
chứng khoán phải xác định giá trị danh mục đầu tư của mình hoặc giá trị tài
sản thuần của mỗi cổ phần NAV.
 Các công ty đầu tư đóng - quỹ đóng:
Các công ty đầu tư đóng closed- end investment company thường xây dựng
cơ cấu vốn capitalization thông qua phát hành cổ phần một lần một. Tổ chức
này có thể phát hành cổ phần thường common cổ phần ưu đãi preferred hoặc
các trái phiếu bong, giống như một công ty cổ phần sản xuất kinh doanh
truyền thống.
Cơ cấu vốn trong công ty đầu tư đóng được xem là ổn định. Ngoại trừ các
đợt phát hành huy động vốn tập trung, các công ty này không phát hành cổ
phần dây dưa và cũng không thu lại các cổ phần đã phát hành. Các cổ phần

sau khi phát hành sẽ được mua đi bán lại trên các thị trường thứ cấp, có thể
là tại sàn giao dịch các exchange hoặc trên thị trường không tập trung OTC
– over-the-counter market. Do đó mà nó có thể được tính thêm tiền huê hồng
hay một khoản kê giá lên markup do các dealer thực hiện.
Giá thị trường của các cổ phần loại quỹ đóng này sẽ được dựa trên các lực
lượng cung cầu quyết định, theo cách như các chứng khoán thông thường
khác, hơn là trực tiếp liên hệ với giá trị thuần. Bởi vậy, các cổ phần của công
ty đầu tư đóng được mua bán ở mức cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thuần. Tại
các nước có TTCK các công ty loại này còn được gọi một cách phổ biến hơn
là "các quỹ mua bán tự do" publicly traded funds.
 Các công ty đầu tư mở - quỹ mở:
Các công ty đầu tư mở open- end management company, được gọi phổ biến
là quỹ hỗ tương mutual fund, được phát hành liên tục các cổ phần mới để
tăng vốn, đồng thời sẵn sàng thu hồi lại các cổ phần đã phát hành tuỳ theo ý
của cổ đông và ở mức giá trị thuần. Cổ phần của quỹ chỉ có một loại là cổ
phần thường, về căn bản, chúng được mua tại các công ty đầu tư, và muốn
bán lại cũng chỉ được bán cho nơi đó.
Các quỹ đầu tư hỗ tương làm chủ một danh mục đầu tư các loại chứng
khoán, đồng thời về nguyên tắc các cổ đông là chủ của các chứng khoán đó.
Mỗi người đầu tư làm chủ một phần lợi chưa được chia, tích trong bó chứng
khoán cơ sở đó. Không một cá nhân nào có một quyền lợi riêng trong bất cứ
một tài sản cụ thể nào lập nên danh mục đó.
Cơ cấu vốn của quỹ hỗ tương được để mở, và được gia tăng lượng vốn đầu
tư thu nhận từ các cổ đông mới không giới hạn, vì vậy mà người ta gọi đây
là quỹ mở. Các cổ phần sở hữu công ty đầu tư mở do tính chất của chúng
được gọi là chứng khoán khả hoàn redeemable. Cũng do tính chất như vậy,
nếu có tình huống nhiều người muốn thanh lý đầu tư của họ để lấy tiền thì
vốn của quỹ hỗ tương sẽ teo lại.
 Đầu tư đa dạng hay không đa dạng:

×