Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Quá trình hình thành giáo trình lý thuyết chung về thị trường mở và thị trường chứng khoán p4 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.61 KB, 10 trang )

hướng mong muốn. Vì Mỹ có thị trường tài chính phát triển,
thị trường đối với chứng khoán chính phủ thoả mãn các điều
kiện đòi hỏi của NVTTM nên doanh số giao dịch bình quân
một ngày rất lớn (100 $/ngày). đây là khối lượng giao dịch ở
mức rộng và mạnh nhất trên thị trường tài chính nước Mỹ. Nó
có thể đảm đương một khối lượng giao dịch rất lớn với tất cả
các ngân hàng, doanh nghiệp, cá nhân và các nhà môi giới…
bằng điện thoại và các dịch vụ mạng cáp kết nối giữa các giao
dịch viên các khách hàng trên toàn nước Mỹ. Các giao dịch
mua, bán chứng khoán diễn ra hàng ngày thông qua phòng
giao dịch đặt tại ngân hàng dự trữ liên bang Newyork.
Vì NHTW bán chứng khoán có xu hướng giảm tốc độ
tăng trưởng của tiền gửi và tín dụng ngân hàng. Vì khi bán
chứng khoán chính phủ cho người kinh doanh, giá trị tài khoản
tiền gửi dự trữ tại ngân hàng liên bang khu vực của ngân hàng
nơi người giao dịch đặt tài khoản sẽ giảm. theo đó khả năng
thực hiện cho vay và các hình thức tín dụng khác của ngân
hàng sẽ giảm và ngược lại.
Ngày nay, Fed đặt mục tiêu gắn lãi suất quỹ liên bang với
lãi suất cho vay dự trữ qua đêm giữa các ngân hàng. Nếu Fed
muốn tăng lãi suất quỹ liên bang nhằm hạn chế cho vay và chi
tiêu, nó thường bán chứng khoán trên TTM , giảm dự trữ mà
ngân hàng có thể sử dụng để cho vay, buộc ngân hàng phải vay
thêm dự trữ.
Điều này, có xu hướng nâng cao lãi suất trên thị trường , hạn
chế các quan hệ kinh tế. Mặt khác nếu NHTW muốn hạ thấp lãi suất
nhằm khuyến khích cho vay và chi tiêu trong nền kinh tế, nó sẽ mua
chứng khoán trên TTM mở rộng dự trữ của các ngân hàng, mở rộng
khả năng cho vay mới, làm giảm áp lực vay thêm dự trữ trên thị
trường vốn liên bang. Điều này có xu hướng hạ thấp lãi suất, đẩy
nhanh các quá trình kinh tế.


































PHẦN 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỊ TRƯỜNG
MỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Sự cần thiết phải ra đời hoạt động TTM ở Việt Nam
Với Việt Nam, NVTTM là một công cụ rất quan trọng và cần
thiết trong việc điều hành CSTT ở Việt Nam. Sự cần thiết đó
thể hiện ở một số điểm sau đây:
 Do hạn chế của công cụ trực tiếp trong việc điều hành CSTT.
Qua thực trạng điều hành CSTT ở Việt Nam trong thời gian
qua, có thể thấyhạn chế của công cụ trực tiếp là: thiếu chủ
động, hiệu quả thấp, sự phối hợp chưa chặt chẽ, chưa thực sự
phản ánh tín hiệu thị trường. Do đó cần thiết phải có công cụ
gián tiếp- NVTTM để có thể điều hành CSTT một cách linh
hoạt và chủ động.
 Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với xu thế hội nhập
quốc tế, Việt Nam phải có thị trường tài chính phát triển mới
có thể tham gia vào thị trường quốc tế. Công cụ NVTTM sẽ
góp phần phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính Việt
Nam.
 NVTTM giúp chính phủ thực thi CSTT quốc gia có hiệu quả.
Điều này được thể hiện ở sự chủ động và linh hoạt trong các
hoạt động của NHTW về thời gian và mức độ tác động theo
mục đích của mình.
 Ngoài ra NVTTM còn có tác động đối với các tổ chức tín dụng
trong việc đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng, thực hiện các mục
tiêu của CSTT.
 Việc xuất hiện TTM là một bước tiến quan trọng trong tiến
trình tự do hoá lãi suất ở nước ta. Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã có thêm một công cụ mới- công cụ quan trọng nhất
trong điều hành CSTT ở nước ta.

2. Thực trạng hoạt động TTM ở Việt Nam
2.1. Thuận lợi
Qua hơn hai năm thực hiện, NVTTM ở nước ta đã vận hành
một cách nhịp nhàng và đạt được một số mục tiêu đã đề ra .
NHNN bước đầu đã sử dụng thành công một công cụ mới để
điều hành chính sách tiền tệ. Về cơ bản, các quy định hiện
hành về hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là phù hợp với
tình hình thực tế hiện nay. Công tác điều hành, tổ chức thực
hiện nghiệp vụ thị trường mở thực hiện an toàn; việc giao dịch
thông qua nối mạng giữa trung tâm giao dịch của thị trường
với các thành viên được thực hiện trôi chảy. Nghiệp vụ TTM
đã có tác dụng nhất định tới vốn khả dụng của các TCTD tham
gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn,
tạo ra khả năng phối hợp giữa thị trường liên ngân hàng - thị
trường mở - thị trường chứng khoán trong các thị trường tài
chính Việt Nam hiện nay.
Ở nước ta đã có những điều kiện thuận lợi nhất định cho thị
trường mở phát triển như:
 Sự ổn định về chính trị. Không phải quốc gia nào cũng
có điều kiện chính trị ổn định như ở Việt Nam. Đây
không chỉ là điều kiện lý tưởng cho nghiệp vụ thị trường
mở mà còn của bất kỳ một nghiệp vụ nào trong chính
sách tiền tệ.
 Sự thuận tiện của kinh tế vĩ mô. Tính chất hàng hoá của
công cụ ngắn hạn đã và đang có hiện nay, thực trạng về
luân chuyển vốn giữa các ngân hàng, khả năng quản lý
vốn khả dụng của NHNN rất thích hợp để triển khai và
thúc đẩy nghiệp vụ này.
 Sự khá hoàn chỉnh của khuôn khổ pháp lý: Hàng loạt các
văn bản về các vấn đề liên quan đến thị trường mở đã

được ban hành như quy chế nghiệp vụ thị trường mở, quy
trình nghiệp vụ mở, quy định đăng ký giấy tờ có giá, quy
chế quản lý vốn khả dụng, quy trình nghiệp vụ đấu thầu
tín phiếu NHNN.
2. Khó khăn.
Nghiệp vụ thị trường của NHNN Việt Nam là hoạt động
hoàn toàn mới cả về lý luận và nội dung hoạt động đối với
nước ta mà điều kiện vận hành và phát huy hiệu quả của nó
không phải là dễ dàng. Nghiệp vụ thị trường mở là một
trong các công cụ tái cấp vốn của NHTW, có thể nói là công
cụ tái cấp vốn có hiệu quả nhất của chính sách tiền tệ.
Tuy đã đạt được một số kết quả trông thấy nhưng với thời
gian ngắn ngủi hơn một năm, chúng ta chưa thể có đủ kinh
nghiệm để vận hành trơn tru cỗ máy nghiệp vụ TTM mà
không vấp phải những sai lầm, tồn tại không thể tránh khỏi
hay phát huy tối đa những thuộc tính ưu việt của nó.
2.1. Số lượng thành viên tham gia còn ít.
Đến nay, NHTW mới chỉ cấp giấy phép hoạt động cho 21
TCTD tham gia thị trường bao gồm 4 NHTM Nhà nước
(NH Ngoại thương, NH nông nghiệp và phát triển nông
thôn, NH Công thương, NH đầu tư và phát triển); 10 Ngân
hàng thương mại cổ phần, một ngân liên doanh, 4 chí
nhánh Ngân hàng nước ngoài, một công ty tài chính và
QTDND Trung ương. Qua các phiên giao dịch, số thành
viên tham gia dự thầu thường là nhỏ. Các NHTM quốc
doanh tham gia dự thầu và trúng thầu là chủ yếu, còn các
TCTD khác hầu như chưa tham gia dự thầu.
2.2. Loại hình hàng hoá giao dịch còn hạn chế.
Điều 8 Quyết định 85/2000/QĐ - NHNN14 (ngày 9/3/2000)
của thống đốc NHNN (về việc ban hành Quy chế nghiệp vụ

thị trường mở) quy định các loại giấy tờ có giá được giao
dịch thông qua thị trường mở bao gồm: Tín phiếu kho bạc,
tín phiếu NHNN, các loại giấy tờư có giá ngắn hạn khác do
Thống đốc NHNN quy định cụ thể trong từng thời kỳ.
Quy định trên cho thấy dù trong từng thời kỳ cụ thể, các loại
giấy tờ có giá được sử dụng trong nghiệp vụ TTM của nước
ta vẫn có thể tăng thêm ngoài tín phiếu NHNN, nhưng về
bản chất đó vẫn là “giấy tờ ngắn hạn”. Quan niệm thiếu cập
nhật này tạo nên sự đơn điệu về hình thức hàng hoá giao
dịch trên thị trường mở.
Qua hơn một năm hoạt động, hàng hoá được giao dịch trên
TTM chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN.
Tổng khối lượng của hai loại tín phiếu đang được NHNN
nắm giữ là 3000 tỷ đồng trong đó có 1000 tỷ là tín phiếu
của NHNN. Trong phiên đấu thầu đầu tiên chỉ có 300 tỷ
đồng tín phiếu được mua bán.
2.3. Phương thức giao dịch còn đơn điệu.
Các phiên giao dịch vừa qua chỉ áp dụng phương thức mua
bán hẳn với tín phiếu NHTW, phương thức mua có kỳ hạn
đối với tín phiếu kho bạc nhà nước, còn phương thức bán
hẳn ít được thực hiện. Phương thức đấu thầu thường là đấu
thầu lãi suất. Các TCTD chưa tham gia thường xuyên vào
các phiên giao dịch, quang cảnh khá buồn tẻ ở từng phiên
chợ, hàng hoá giao ở thị trường mở chỉ dừng lại ở giấy tờ có
giá ngắn hạn và tập trung vào hai loại là: tín phiếu NHNN
và tín phiếu kho bạc. Đây là khó khăn lớn nhất của nghiệp
vụ thị trường mở hiện nay. Các phiên đấu thầu lãi suất có
tính cạnh tranh cao nên các NHTM và TCTD nhỏ không đủ
điều kiện tham gia, tạo ra tình trạng chưa sôi động của thị
trường, thị trường thứ cấp của thị trường mở chưa phát

triển, các thị trường liên Ngân hàng chưa hoàn thiện gây
ảnh hưởng lớn đến nghiệp vụ thị trường mở. Vì vậy, những
tác động và hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở tới chính
sách tiền tệ chưa sâu rộng và thiết thực.
2.4. Thiếu nguồn thông tin đáng tin cậy.
Rõ ràng là muốn hoạt động có hiệu quả cao, phải có một thị
trường minh bạch về thông tin và hoạt động mua bán diễn ra
một cách liên tục. Trong thị trường đó, các bên tham gia
được biết những thôngtin và mục đích hoạt động của
NHTW.
Hệ thống ngân hàng nước ta hiện nay tuy đã được trang bị
những trang thiết bị khá hiện đại như điện thoại, fax, máy vi
tính kết nối Internet song không vì thế mà có đủ thông tin
về các NHTW và TCTD nước ngaòi có quan hệ giao dịch
với NHNN Việt Nam. Ngoài ra, nước ta còn thiếu những
nhà kinh tế học với khả năng phân tích, dự đoán chính xác
những công ty chuyên nghiên cứu thị trường nói chung và
TTM nói riêng. Trong khi đó, ở Mỹ hay các nước EU có
hẳn những hãng “thám tử kinh tế”, những chuyên gia kinh
tế chuyên nghiên cứu về vấn đề rủi ro, tình hình tài chính
những thành viên tham gia thị trường mở, nhu cầu về chứng
khoán và xu hướng phát triển của kinh tế toàn cầu. Đó là cơ
sở cho NHTW của họ đưa ra mức lãi suất chiết khấu và
lượng chứng khoán phát hành.
Ngoài ra, các ngân hàng còn thiếu cán bộ thông tin giỏi về
công nghệ thông tin trong khi đặc trưng của thị trường mở
rất cần sự hỗ trợ của công nghệ thông tin.
Trên thực tế hoạt động của các ngân hàng Việt Nam vẫn
chưa thoát ra khỏi nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, đó là
hoạt động tín dụng. Dự nợ cho vay ở hầu hết các ngân hàng

vẫn chiếm 70% tổng số sử dụng vốn.
Phần 3: Định hướng và giải pháp phát triển nghiệp vụ mở
thị trường ở Việt Nam
1. Định hướng cho NVTM ở Việt Nam.
- Cở sở pháp lý cho hoạt động của thị trường cần được rà
soát lại để kịp thời điều chỉnh theo hướng tạo điều kiện để
thu hút thành viên tham gia thị trường mở.
- NHTW cần tiếp tục nghiên cứu để mở rộng thêm nhiều
loại hàng hoá (như các loại trái phiếu, các chứng khoán do
tổ chức tín dụng Nhà nước phát hành ) có thể sử dụng
trong các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở.
- Chất lượng công tác dự báo, điều hành thị trường cần từng
bước hoàn thiện trên cơ sở nâng cao trình độ cán bộ dự báo,
cải tiến chế độ cung cấp thông tin trong và ngoài ngành với
sự phối hợp chặt chẽ của các đơn vị NHNN, các tổ chức tín
dụng, các bộ ngành liên quan (Bộ tài chính, Kho bạc Nhà
nước).
- Đẩy mạnh tiến độ hiện đại hoá hệ thống thanh toán liên
Ngân hàng. Đây cũng chính là cơ sở để nâng cao hiệu quả
của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở.
2. Giải pháp cho hoạt động thị trường mở ở Việt Nam.
2.1. Tăng cường vai trò chỉ đạo của NHTW trên TTM.
Trên TTM để tác động đến lượng tiền cung ứng trên từng
thời kỳ. Ở giai đoạn đầu, thành viên thị trường mở là các
TCTD là phù hợp, tuy nhiên các tổ chức này hiện nay chưa
thực sự cần đến thị trường mở để điều tiết vốn khả dụng của
mình và Ngân hàng nhà nước cũng chưa có “cây đũa thần”
chỉ huy nghiệp vụ này. Một trong những điều kiện tham gia
nghiệp vụ TTM là các thành viên phải có giấy tờ có giá để
bán và chủ động được vốn khả dụng của mình. Nhưng các

TCTD chưa đầu tư nhiều vào giấy tờ có giá ngắn hạn do
nhiều nguyên nhân, và thực ra họ vẫn chịu sự thiếu bình
đẳng trong kinh doanh. Các NHTM quốc doanh được vay
theo chỉ định, nên có nhiều lợi thế trong giao dịch trên thị
trường mở nhờ được vay với giá rẻ để mua giấy tờ có giá có
lãi suất lợi hơn. Các NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh,
quỹ tín dụng ít có được ưu thế này. Điều này không kích
cầu tín dụng, tạo ra sự phân biệt đáng kể trên thị trường mở
một cách thực sự thì NHNN phải tạo cho họ một sân chơi
bình đẳng, tức là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ
ràng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Ngoài ra
cần phải tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng cho các
TCTD về nghề vụ này.
2.2. Đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường mở.
Cần cụ thể hoá việc này bằng cách bổ sung vào cơ cấu hàng
hoá này các tín phiếu Kho bạc có thời hạn dưới một năm
(như trái phiếu Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam,
trải phiếu chính quyền địa phương), các loại chứng chỉ tiền
gửi, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng )
Ngoài ra, trong dài hạn, phạm vi giấy tờ có giá cần được mở
rộng ra không chỉ các l oại ngắn hạn mà còn trung, dài hạn
có thể xem xét làm công cụ giao dịch miễn là chúng có độ
thanh khoản cao. Sở dĩ như vậy vì thời hạn của giấy tờ có
giá không mâu thuẫn với yêu cầu nhanh nhạy của chính
sách tiền tệ bởi đã có phương thức mua lại trên thị trường
mở.
2.3 Lựa chọn phương thức giao dịch thích hợp.
Phương thức giao dịch phù hợp nhất với thị trường mở là
mua bán có kỳ hạn, mà NHNN là người chủ động quyết
định mua bán với số lượng bao nhiêu, vào thời gian nào,

theo phương thức gì tuỳ theo yêu cầu của chính sách tiền tệ
trong từng thời kỳ. Việc thực hiện nghiệp vụ TTM dưới
hình thức mua hẳn sẽ làm tăng tỷ lệ cung ứng tiền NHTW
qua quan hệ tín dụng, làm yếu khả năng điều tiết của
NHTW, gây biến động lớn đến thị giá chứng khoán theo
chiều không tốt.
Theo quy chế nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể thực
hiện đấu thấu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Việc đấu
thầu khối lượng xẩy ra khi lãi suất cố định được tính toán
và chỉ đạo, còn đấu thầu l ãi suất sẽ xác định lãi suất trúng
thầu tại điểm mà khối lượng tiền cần bơm vào hay hút khỏi
lưu thông đạt được. Chính các mức lãi suất này sẽ quyết
định giá của giấy tờ có giá trên thị trường mở. Để khuyến
khích các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ TTM, trong
giai đoạn đầu, NHNN Việt Nam cần kết hợp cả hai hình
thức đấu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng.
2.4. Các biện liên quan khác.
Thứ nhất: Hoàn thiện thị trường liên Ngân hàng.
NVTM chỉ thực sự hữu hiệu trên cơ sở thị trường liên NH
phát triển.
Thứ hai: Hiện đại hoá công nghệ hệ thống thông tin và
công nghệ Ngân hàng.

×