Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

HẠNH PHÚC – PHẢI LỰA CHỌN (Tủ sách tuổi trẻ) – Phần 1 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 8 trang )



Quyển sách Hạnh phúc - phải lựa chọn của Thạc sĩ phát triển cộng đồng Nguyễn Thị
Oanh là tuyển tập các bài viết về tâm lý giáo dục, đặc biệt dành cho quí phụ huynh và
các thầy cô giáo.
Lời giới thiệu - Hạnh phúc phải lựa chọn
Làm công việc chuyên trách cộng tác viên chuyên viên của Tuổi Trẻ, lâu lâu tôi lại nhận
được mail hoặc một cuộc điện thoại của chị Oanh: “Em ơi, ở Hội thảo X/Y/Z giáo dục,
có ông tiến sĩ… đọc bài tham luận hay quá, em xem có thể khai thác cho Tuổi Trẻ được
không?”.
Hoặc “Chị gởi em xem bài này của… Ông viết hơi khó đọc nhưng nội dung khá hay.
Nghĩa là tụi mình xới lên vấn đề triết lý giáo dục là đúng, có điều phương pháp của mình
chưa đủ để thấy tính bức bách của vấn đề…” .
Khi thấy đề tài chị gợi ý chưa xuất hiện, chị điện thoại nhắc. Việc đặt bài của Tuổi Trẻ
cho các chuyên gia giáo dục, xã hội nếu gặp khó khăn, chị chỉ dẫn, giúp đỡ tận tình. Có
lần tôi buột miệng nói: “Chị lo cho Tuổi Trẻ có khi còn hơn người của Tuổi Trẻ nữa”, chị
nói ngay: “Không phải chị lo cho Tuổi Trẻ đâu, mà là chị lo cho nền giáo dục của nước
nhà”.
Tất cả những bài viết của chị về giáo dục cho thấy một nỗi lo đau đáu, mà đâu chỉ chuyện
giáo dục, còn có chuyện gia đình, chuyện giá trị sống, nhân cách sống, các vấn đề của
giới trẻ… Chị không chỉ là nhà giáo dục, mà còn là nhà hoạt động xã hội, nhà quan sát,
lại là người viết báo hay. Cho nên, chị có khả năng vừa nhìn thấu được những chuyện ở
tầm cao, và cũng soi được ngóc ngách vấn đề đến tận cùng.
Xin được trân trọng giới thiệu với bạn đọc quyển sách Hạnh phúc - phải lựa chọn của
Thạc sĩ phát triển cộng đồng Nguyễn Thị Oanh. Đây chỉ là một phần trong kho bài viết
đồ sộ của chị từ trước đến nay. Những tác phẩm rất đáng đọc và nghiền ngẫm.

Nhà báo Thủy Cúc ( Tuổi trẻ )

Học làm người qua sinh hoạt ngoại khóa
Cách đây 50 năm tôi bạo gan tự xin đi du học ở Mỹ. Không ngờ tôi được chọn không vì


học lực mà vì tính tự lập. Cách ghép hai danh sách các trường cấp học bổng cho SV du
học hoàn toàn hú họa: nhiều bạn tôi rơi vào các đại học nổi tiếng, có bạn được vào các
trường dành cho nữ “quí tộc”.
Riêng tôi rơi vào một trường nhỏ xíu nằm ở một thành phố khỉ ho cò gáy (La Crosse) ở
bang Wisconsin đầy tuyết. Đầu tiên đây là một trường sư phạm nhỏ đào tạo giáo viên phổ
thông. Đến năm 1949-1950, trường được mở rộng cho mọi thành phần và thêm nhiều
phân khoa như khoa học tự nhiên, xã hội học, sử học, nghệ thuật
Khi tôi đến trường chỉ có vài trăm sinh viên, nhưng đến nay đây là một đại học có tiếng
trong vùng, được đánh giá cao bởi các ngành giáo dục học, nghệ thuật, điều dưỡng
Tôi đến vào đầu hè để theo khóa hè nhằm rút ngắn thời gian. Ngày đầu tiên tôi gặp tiến
sĩ Mary C. phụ trách SV. Sau đó tôi mới biết bà là trưởng khoa xã hội học và là một
trong các giáo sư lỗi lạc nhất của trường. Bà làm tư vấn học tập cho tôi vì mỗi giảng viên
được chỉ định theo dõi, tư vấn cho từ 5-10 SV. Bà nói với tôi: “Em được học bổng toàn
phần nhưng chủ trương của nhà trường là tất cả phải làm việc để hưởng tiền túi của
mình”. Chúng tôi được chỉ định làm việc bán thời gian ở thư viện, bệnh viện hay các cơ
sở khác của trường. Bà đã nói về một hệ giáo dục toàn diện mà sau này tôi nghe cả trăm
lần trên lớp học và nhấn mạnh trường rất quan tâm giáo dục chúng tôi qua các sinh hoạt
ngoại khóa. Và tôi là người từ xa, đến từ một nước đang phát triển cần nhân tài nên phải
tích cực tham gia. Nói vậy tôi nghe vậy chứ chưa hiểu lắm. Mãi về sau này tôi mới thấy
các sinh hoạt ngoại khóa ở một đại học Mỹ quan trọng như thế nào.
Một SV Mỹ và tôi được chỉ định về làm ở phòng bông băng tại bệnh viện. Hồi đó người
ta chưa bỏ đi các băng, gạc đã sử dụng mà giặt lại rồi hấp để tiệt trùng. Nhiệm vụ của
chúng tôi là làm phẳng và xếp các miếng vải gạc đã giặt, cột thành gói nhỏ cho vào nồi
hấp. Sau một thời gian, để được tăng lương tôi được đổi lên lầu hai phục vụ cho người
bệnh ăn. Không ngờ mỗi ngày đút ăn cho 10 cụ bà sắp chết tôi bị xuống tinh thần, ăn ngủ
không được. Do đó năm sau với vốn tiếng Anh khá hơn, tôi chuyển qua thư viện. Mấy
tuần lễ đầu tiên là lau bụi cả trăm quyển sách và các kệ sách (hồi đó chưa có máy hút bụi
nhỏ). Bước tiếp theo là xếp lại trên kệ đúng số thứ tự các sách bạn đọc trả. Rồi phụ trách
quầy cho mượn sách, làm phiếu, phân loại Dĩ nhiên, tôi phải học đánh máy đúng qui
cách. Hồi đó, ở VN đánh máy được 10 ngón cũng “le” lắm. Nhưng không ngờ nhờ đó tôi

đã thành lập hàng chục thư viện lớn nhỏ trong quá trình hoạt động của tôi sau này. Giờ
đây thư viện đã được vi tính hóa, sách thường được phân loại sẵn. Nhưng công việc này
đã để lại cho tôi cái thú vui với sách, kỹ năng đọc và tổng hợp nhanh, điều mà chỉ học ở
lớp không thể nào có được.
Vào năm học, bà Mary khuyên thế nào cũng phải học các môn tự chọn: “Em nên học các
môn như thủ công mỹ nghệ, âm nhạc và tổ chức đời sống gia đình cho vui và để mở
mang” (giáo dục toàn diện mà!). Tôi vào ban hợp xướng của trường và để chuẩn bị đêm
hội quốc tế, thầy nhạc đã đệm violon cho tôi solo bài Đêm đông sau 6-7 lần tập dượt. Giờ
đây tôi hát không ra hơi nhưng ít ra đã biết đọc nốt nhạc và hát đúng nhịp. Đi trình diễn
đây đó cũng tạo cho tôi thói quen dạn dĩ. Còn từ lớp thủ công tôi làm được một chân đèn
bằng men, vài món nữ trang bằng đồng rất vụng về nhưng từ đó tôi học được cách phối
màu, trang trí nội thất. Vui nhất là môn kinh tế gia đình: không chỉ dạy vệ sinh, cắt may,
nấu nướng mà còn cả cách tiếp đãi khách. Bài thực tập là một buổi dạ tiệc khá long trọng.
Bà giáo nói: “Oanh nó ở xa, cần học hỏi nhiều, cô cho nó làm bà chủ nhà”. Các bạn khác
kẻ đi chợ, người nấu ăn, kẻ dọn dẹp trang trí. Chúng tôi phải ngồi lại lên kế hoạch từ số
khách mời là ai, làm món gì cho phù hợp, dọn bàn và trang trí đúng cách, đặt khách ngồi
đúng chỗ, tiếp khách khi mới đến Giờ đây, tôi không mặn mà với nữ công gia chánh
chút nào nhưng học được phép giao tiếp của phương Tây, rất có ích cho công việc của tôi
hôm nay.
Lên giữa năm thứ hai tôi đã chọn ngành xã hội học mà người phụ trách là giáo sư Mary
C., người đã tạo một dấu ấn to lớn trên con người khoa học của tôi. Nhưng kỷ niệm vui
nhất của tôi là tiến sĩ Celestrine H trưởng khoa Anh văn. Chúng tôi gắn bó với nhau ở
lớp và các môn văn chương Anh Bà còn phụ trách tạp chí của trường tên Touchstone
(là một thứ đá để thử vàng bạc). Các bạn sinh viên quốc tế khác học tiếng Anh hơi khó
nên bà chọn tôi để “thêm màu sắc” cho tạp chí và hướng dẫn tôi viết bài về châu Á, VN,
người phụ nữ phương Đông Thực tế công tôi một, công bà ba vì phải sửa chữa hiệu
đính từng chữ, từng câu cho ra một bài báo của đại học. Tôi học viết báo từ đó. Một năm
báo được giải thưởng nhờ một bài của tôi với sự gọt giũa của bà. Mừng quá bà thừa thắng
xông lên. Bà cho tôi đi nói chuyện ở các hội đoàn. Một hôm, đột nhiên tôi bị hoảng trước
một cử tọa toàn quí bà sang trọng của thành phố. Bỗng nhiên giữa các bà tôi thấy bà giáo

của tôi nét mặt lo lắng, môi đang chép chép những lời mà tôi đã quên vì bà đã dượt cho
tôi nhiều lần. Buồn cười quá tôi hết sợ và tiếp tục. Năm thứ hai có một môn bắt buộc là
speech (nói chuyện trước công chúng). Ở môn này không những chúng tôi học triển khai
nội dung, sắp xếp bố cục mà phải biết trình bày sao cho hấp dẫn và xuất hiện thế nào cho
ấn tượng. Người dạy chúng tôi là một phụ nữ đẹp duyên dáng, ăn mặc đúng mốt và tự tin.
Tôi còn nhớ mấy chữ bà nhắc đi nhắc lại “một tư thế tự tin và duyên dáng”. Không ngờ
sau năm 1975, NVH Thanh niên nhờ tôi dạy về thuật hùng biện. Dù không tin ở sự độc
thoại nhưng tôi đã “rút tuồng bụng” từ mấy chục năm trước để mở mấy lớp về lý thuyết
và thực hành nói chuyện trước công chúng.
Nhưng bấy nhiêu chưa “toàn diện” đến đâu. Trường rất quan tâm đến rèn luyện kỹ năng
giao tiếp với người khác phái. Cuối năm trường lại tổ chức ba đến bốn kỳ dạ hội khiêu vũ
với các trường nam trong vùng. Lần đó các bạn của tôi rất thích thú hồi hộp vì là một
cuộc “blind date”. Đó là cuộc “hẹn hò mù”, nghĩa là bạn sẽ rút thăm để gặp một chàng
trai không hề quen biết mà suốt buổi phải trò chuyện, uống rượu, khiêu vũ với anh ta. Giờ
đây chuyện ấy đối với cả thiếu nữ VN không có gì mà ầm ĩ. Nhưng cách đây nửa thế kỷ
không phải chuyện nhỏ. Môn giáo dục thể chất có dạy kỹ các vũ điệu cổ điển như valse,
tango nhưng có lẽ vì bị vướng mắc lời dặn “không được nhảy đầm!” của cha tôi nên tôi
học hoài không được. Cho nên trước biến cố này tôi sợ khiếp vía. Có vài bạn Mỹ ở nông
thôn ra nên cũng sợ lắm. Chúng tôi bàn nhau sẽ trốn. Nhưng trước đêm dạ hội bà Mary
lên tận phòng tôi, cười mím chi nói: “Không chết đâu mà sợ, cái gì cũng phải tập cho
quen. Cô cũng sẽ có mặt mà”. Các bạn nội trú tối thứ bảy hay đi nhảy ở các night club.
Họ kéo tôi đi vài lần nhưng tôi rất sợ cái bầu không khí mù mịt khói, hơi bia và xoay qua
xoay lại là đụng nhau. Bà giáo thường nói “lâu lâu cũng nên đi cho biết”.
Tôi học rất nhiều ở lớp học nhưng các ấn tượng ngoài lớp học đã theo tôi mãi mãi. Và giờ
đây tôi hiểu ra thế nào là giáo dục toàn diện và ý nghĩa của sinh hoạt ngoại khóa trong
giáo dục đại học. Có bạn trẻ hỏi: “Sao cái gì chị cũng biết hết vậy?”, đó là do tôi may
mắn cái gì cũng được học.
Tháng 4-1999, tôi trở về thăm trường. Bà thầy ruột tổ xã hội học đã đi nơi khác hay chết
rồi cũng không chừng vì nhiều thầy cô tôi đã qua đời. Nhưng bà thầy Anh văn còn. Bà 94
tuổi, mới bị gãy chân nên chống gậy đến đón tôi. Bà khóc và nói: “Mấy chục năm không

có tin em, cô nói với các cô thầy chắc là Oanh nó chết trong bom đạn rồi”. Ngày hôm sau
trường mời tôi đi nói chuyện với các khoa công tác xã hội, quốc tế, sử học. Bà đang ho sù
sụ mà vẫn theo nghe tôi. Bà theo dõi từng lời như hồi tôi còn nhỏ nhưng giờ đây chắc bà
đã yên tâm hơn với người học trò già của mình.
Quên sao được công ơn của những người cùng với cha mẹ mình góp phần vào sự hoàn
thiện nhân cách của mình. Không chỉ tôn sư trọng đạo mà tình thầy trò là cái gì đó theo ta
suốt đời. Còn cha tôi chưa kịp xem cái văn bằng nhưng đã nhận ra sự thay đổi nơi tôi
ngay ở cái bàn ăn vì tôi đã biết dọn dẹp, kỹ lưỡng, đối xử với mọi người khác đi. Khi tôi
đi thì chỉ biết ăn rồi chơi, quét nhà, giặt quần áo cũng không biết. Cha tôi khá hài lòng
với tấm bằng tốt nghiệp ở trường đời.
Lương tâm
Cách đây vài năm, ông Ladinsky - nhà xã hội học luật pháp Mỹ - có tới thăm và thuyết
trình tại TP.HCM.
Ông nói: "Luôn hoàn chỉnh luật và thi hành pháp luật là điều cần thiết, nhưng nên nhớ
rằng luật là bệ chắn cuối cùng. Điều cơ bản hơn là giáo dục công dân sao cho họ có một
tâm thế sẵn sàng tuân thủ luật. Làm sao để trừng phạt, chế tài chỉ dành cho một thiểu số
bất trị".
Điều giúp cho cá nhân biết tôn trọng lợi ích chung, biết thể hiện sự tự do của mình mà
không vi phạm sự tự do của người khác là lương tâm. Thấp hơn lương tâm là sự biết điều,
sự tự trọng.
Sự rối loạn giao thông cho thấy một điều đáng buồn là ở thành phố ta có một số người mà
hai điều tối thiểu cuối cùng trên họ cũng không có Nhường nhịn một chút để chờ (tôn
trọng lợi ích chung), để chính mình đỡ mất giờ hơn (để tìm lợi ích riêng) mà họ cũng
không làm được. Đây không phải chuyện lớn nhưng sự thiếu tư cách và thậm chí "rừng
rú" của một số cá nhân là một câu hỏi đặt ra cho hiệu quả quản lý và giáo dục.
Nhưng quan trọng và cơ bản hơn nữa là tìm hiểu nguyên nhân của sự nhiễu loạn xã hội
ngày nay với tệ nạn ma túy, mại dâm, hiếp dâm, lạm dụng tình dục trẻ em và các tội
phạm hình sự xảy ra. Những kẽ hở trong quản lý, sự thiếu trách nhiệm, hay làm ngơ hoặc
trầm trọng hơn là bảo kê cho cái xấu không còn là một điều giấu giếm nữa. Bằng giả,
buôn lậu, bán đề thi, mua bằng cấp cũng thuộc cùng một phạm trù. Và bất cứ một người

dân yêu nước nào cũng phải góp phần giải quyết vấn đề dầu sôi lửa bỏng này của đất
nước. Ở đây ông tiến sĩ đã làm lộ đề hay anh công an khu vực làm ngơ cho tội phạm vì
lợi ích riêng cũng chịu trách nhiệm như nhau. Và có khi phải đặt vấn đề ở cấp cao hơn là
vì sao lương tâm đã bị đánh mất? Lương tâm là cái mà chỉ loài người mới có, cái giúp
từng cá nhân phân biệt phải trái và tự mình biết kiềm chế lấy mình.
Có người nói đùa là họ bị "đứt dây thần kinh mắc cỡ". Tôi xin ví nó như cái thắng của
chiếc xe. Nếu thắng đã hư hay đứt thì hàng ngàn cái bệ chắn là luật pháp cũng không
ngăn chặn nổi.
Xu thế chung là khi có sự vi phạm thì cho là vì người dân không hiểu luật và cố nhồi nhét
giáo dục pháp luật. Đó là bọc cho họ cái vỏ bên ngoài, nhưng khi lương tâm không còn
thì cái vỏ ấy bị phá vỡ như chơi. Muốn chống sự bạo hành và lạm dụng tình dục trẻ em,
nhiều cuộc hội thảo được tổ chức xung quanh chủ đề luật pháp đã giả thiết rằng người ta
xâm hại trẻ em vì người ta không hiểu luật. Theo tôi, nguyên nhân chính là người ta đã
mất tính người vì từ nhỏ người ta không được giáo dục để trân trọng, yêu quí con người
và nhân phẩm, nhất là trẻ em. Vì thế mà tập huấn về quyền trẻ em rất nhiều mà trẻ vẫn là
nạn nhân của bạo lực.
Muốn ngăn chặn thanh thiếu niên sa vào ma túy thì lại giáo dục pháp luật. Tốt chứ,
nhưng có đủ không? Thật ra muốn cho các em tránh ma túy thì cơ bản hơn là tạo cho các
em một cuộc sống gia đình hạnh phúc, an toàn. Làm sao cho các em được thỏa mãn các
nhu cầu về tình thương, tình cảm, một đời sống văn hóa tinh thần phong phú, một nghị
lực để nói "không" với cái xấu, những đam mê lành mạnh như nghệ thuật, thể thao Tạo
cho các em những tập thể đồng lứa sống lành mạnh mà các em thương yêu, gắn bó.
Cái nhìn nông cạn, máy móc về bản chất con người khiến các biện pháp tìm đến thường
mang tính ép buộc từ bên ngoài: cấm đoán, cách ly, nhốt, tập trung thay vì phát huy và
củng cố cái thiện sẵn có từ bên trong mỗi người. Tạo môi trường lành mạnh để trẻ lớn lên
lành mạnh.
Phải chăng vì các nhà khoa học xã hội cơ bản như đạo đức học, tâm lý học, xã hội học,
giáo dục học đã "nghỉ giải lao" một thời gian hơi dài? Và câu hỏi nóng sốt nhất chưa
được trả lời: "Vì đâu lương tâm bị đánh mất để xã hội bị nhiễu loạn đến mức này?".
Chữa cháy rất cần, nhưng ngay từ giờ phút này phải bắt tay xây dựng những ngôi nhà

kiên cố.

NGUYỄN THỊ OANH ( Tuổi Trẻ Online )

×