Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Bảo tàng điêu khắc Chăm doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.08 KB, 3 trang )

Bảo tàng điêu khắc Chăm
Bảo tàng Điêu khắc Chăm được chính
thức khánh thành vào đầu năm 1919. Thật
ra, hơn 20 năm trước đó, người ta đã tập
trung về địa điểm này nhiều hiện vật điêu
khắc Chăm được tìm thấy trong vùng Đà
Nẵng, Quảng Nam và các tỉnh lân cận.
Một bức ảnh chụp vào đầu thế kỷ XX cho
thấy địa điểm được chọn để tập trung các
hiện vật là một gò đất có nhiều cây lớn, các mảng đài thờ, tượng đá được xếp đặt
rải rác ngoài trời.
Việc thu thập những tác phẩm điêu khắc
Chăm bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ
XIX được thực hiện bởi những người Pháp
yêu ngành khảo cổ học, đặc biệt là của
những người làm việc cho Trường Viễn
Đông Bác Cổ của Pháp ( L' École francais d'
Éxtrême - Orient, viết tắt là EFEO) và
những đồng nghiệp Việt Nam. Từ đầu thế
kỷ XX, một số hiện vật điêu khắc Chăm đã được chuyển đi Pháp, một số khác
được chuyển ra Bảo tàng tại Hà Nội và Bảo tàng tại Sài Gòn, nhưng phần nhiều
những tác phẩm tiêu biểu vẫn còn để lại tại Đà Nẵng. Ý tưởng về xây dựng ở Đà
Nẵng một nhà bảo tàng cho các tác phẩm điêu khắc Chăm đã manh nha từ năm
1902 với một đề án của Khoa Khảo cổ của EFEO. và tòa nhà đầu tiên của bảo tàng
được chính thức hoàn thành 17 năm sau đó theo thiết kế của hai kiến trúc sư người
Pháp là Delaval và Auclair. Quá trình xây dựng đề án và vận động để đề án được
thực hiện có sự đóng góp lớn của Henri Parmentier, chuyên gia khảo cổ của EFEO
và là một trong những người đầu tiên có đóng góp quan trọng trong việc sưu tầm,
nghiên cứu di sản văn hóa Chăm. Toàn bộ toà nhà và phong cách kiến trúc ban
đầu của bảo tàng vẫn còn giữ lại cho đến ngày nay mặc dầu đã trải qua hai lần mở
rộng quan trọng.


Lần mở rộng thứ nhất được tiến hành vào
những năm đầu thập kỷ 1930, hoàn thành
vào năm 1936. Đó là việc xây dựng thêm
hai phòng trưng bày hai bên, thẳng góc về
phía trước của tòa nhà cũ, nhằm đủ chỗ để
trưng bày thêm những hiện vật mới được
thu thập về trong những năm 1920, 1930.
Theo ý tưởng của Henri Parmentier, hiện
vật được phân loại để trưng bày theo nguồn gốc địa điểm nơi chúng được phát
hiện hoặc khai quật. Không gian của toà nhà bảo tàng gần 1000 m2 đã được bố trí
thành những khu vực trưng bày, tạm gọi tên như sau: Phòng Mỹ Sơn - Quảng Trị,
Phòng Trà Kiệu, Phòng Đồng Dương, Phòng Tháp Mẫm và các hành lang Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum. Ngoài ra còn có một phòng nhỏ làm
kho. Cách bố trí không gian trưng bày này cơ bản vẫn được duy trì cho đến hiện
nay.
Lần mở rộng thứ hai là việc xây thêm một toà
nhà hai tầng ở phía sau khu nhà cũ, với diện
tích sử dụng khoảng 2.000 m2 dành cho việc
trưng bày và hơn 500 m2 dành làm kho, xưởng
phục chế và phòng làm việc. Tại tầng 1 của khu
nhà mới này hiện đang trưng bày những hiện
vật trước đó còn để trong kho và một số hiện
vật sưu tầm được sau năm 1975. Tầng 2 trưng bày về văn hóa Chăm đương đại
bao gồm sưu tập về trang phục, nhạc cụ và hình ảnh lễ hội của đồng bào dân tộc
Chăm. Trước năm 2007, Bảo tàng Điêu khắc Chăm là một bộ phận của cơ quan
Bảo tàng Đà Nẵng. Ngày 02 tháng 7 năm 2007, Ủy ban nhân dân thành phố Đà
Nẵng có Quyết định số 5070/QĐ-UBND về việc thành lập Bảo tàng Điêu khắc
Chăm Đà Nẵng, là một đơn vị độc lập với Bảo tàng Đà Nẵng, trực thuộc Sở Văn
hóa - Thông tin, nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Đà Nẵng.


×