Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei giai đoan PL1 đến PL 10 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 43 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài báo cáo thực tập cuối khóa này tôi nhận được sự
giúp đở rất từ nhiều từ phía nhà trường và công ty nơi tôi thực tập. Tôi xin
chân thành cám ơn Trường ĐH Quảng Bình, Thầy cô giáo khoa Nông Lâm-
Thủy sản, Giảng viên hướng dẫn: Trần Thị Yên. Ban giám đốc công ty cổ
phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Bình Định III, cùng toàn thể công
nhân viên của công ty đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt kỳ thực tập vừa
qua. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn !
1
MỤC LỤC...........................................................................Trang
1. Đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng................................................................10
2. Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ từ PL1-PL10 ................34
DANH SÁCH CÁC BẢNG
2
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam với diện tích đất liền 329.297 km
2
, vùng biển rộng hơn 1
triệu km
2
và có bờ biển dài hơn 3.260 km, rất thuận lợi cho việc đánh bắt và
nuôi trồng thủy sản. Ngành thủy sản nói chung, nghề nuôi tôm ở Việt Nam
nói riêng những năm gần đây phát triển mạnh mẽ, giải quyết một phần tình
trạng thiếu việc làm, tăng thu nhập cho nhiều hộ nông ngư dân ven biển,
tăng nguồn ngoại tệ lớn thông qua xuất khẩu. Việt Nam đã trở thành một
trong những nước có sản lương nuôi tôm lớn nhất thế giới. Các loài tôm
được nuôi chính ở Việt Nam hiện nay là: Tôm sú (Penaeus monodon), tôm
nương (P. orientalis), tôm thẻ chân trắng (P. vannamei), tôm rằn (P.
semisucatus).
Những năm gần đây tôm thẻ chân trắng đã được sản xuất giống đại trà ở
nước ta. Tôm thẻ là đối tượng mang lại hiệu quả kinh tế, ít gặp rủi ro. Để có


một vụ nuôi thành công cần một điều không thể thiếu là đàn tôm giống khỏe
mạnh và sạch bệnh.
Trong giai đoạn ương nuôi ấu trùng của quy trình sản xuất giống tôm
thẻ chân trắng, thương gặp rủi ro, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống
và chất lượng ấu trùng. Các nhà nghiên cứu thủy sản đã nghiên cứu rất nhiều
để tìm ra loại thức ăn phù hợp nhất cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Các loại
3
thức ăn được sử dụng để ương nuôi hiện nay là tảo, artemia và thức ăn tổng
hợp. Nhưng có nhiều công thức phối hợp giữa các loại thức ăn với nhau.
Mổi công thức khác nhau no cho kết quả khác nhau, cụ thể là tỷ lệ sống và
tốc độ tăng trưởng của ấu trùng. Từ những vấn đề cấp thiết trên tôi muốn
thực hiện chuyên đề “ Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn đến sự tăng
trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei giai đoan
PL1 đến PL 10 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam”
Thực hiện đề tài này tôi muốn tìm ra công thức thức ăn phù hợp nhất, nhằm
nâng cao tỷ lệ sống, mước độ tăng trưởng và chất lượng ấu trùng tôm thẻ
chân trắng giai đoạn PL1 đến PL10.
PHẦN II: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ CƠ SỞ THỰC TẬP
1. Vai trò chiến lược của vị trí địa lý tỉnh Bình Định
Bình Định nằm ở vị trí trung tâm của miền Trung và cả nước; phía
Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi - nơi có khu công nghiệp Dung Quất; phía
Nam giáp tỉnh Phú Yên có nhiều tiềm năng phát triển về du lịch dịch vụ;
phía Tây giáp Tây Nguyên- giàu tiềm năng thiên nhiên cần được khai
thác. Với vị trí địa lý đặc biệt đó nên Bình Định có một vai trò hết sức
quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế
miền Trung và Tây Nguyên. Hệ thống đường quốc lộ 1A, đường sắt
xuyên Việt cùng với đường 19 lên Tây Nguyên và cảng biển nước sâu
Quy Nhơn - Nhơn Hội tạo thành huyết mạch cho sự phát triển kinh tế -
xã hội của Bình Định, miền Trung và Tây Nguyên, cũng như khu vực

tiểu vùng sông Mê Kông bởi trục đường hành lang Đông- Tây: Quy
Nhơn - Kon Tum - Aptopo - Bắc Xế - Ubon Rat Cha Tha Ni, trục hành
lang này có chiều dài khoảng 770km; mặt khác từ Quy Nhơn lên đường
19 đến Kon Tum và theo đường 14 rẽ về phía Nam đến Stung Ố Treng
(Campuchia).
4
Huyện Phù Mỹ: Là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định. Phú
Mỹ giáp các huyện Hoài Nhơn phía bắc, nam và tây nam giáp Phù Cát, tây
bắc giáp Hoài Ân và biển đông ở phía đông. Theo thống kê năm 2005 thì
huyện Phù Mỹ có diện tích là 548,9km2 với dân số khoảng 188.000 người,
trong đó riêng số nữ chiếm tới 96.700 người. Mật độ dân số là 342 người/
km
2
.
Phù Mỹ cũng như Bình Định trước đây thuộc về nền văn hóa Sa Huỳnh, sau
đó thuộc sứ Việt Thường Thị rồi sau này thuộc về vương quốc Chămpa.
Năm 1471, sau khi đánh phá Chiêm Thành và mở bờ cõi tới núi Thạch Bi
( Phú Yên), vua Lê Thánh Tông đã đặt phủ Phù Ly để cai quản những cư
dân Chiêm Thành còn ở lại và những tù nhân hay dân nghèo miền bắc được
đưa vào. Sau này qua mấy lần nhập tách thì Phù Ly được chia đôi thành Phù
Cát và Phù Mỹ lấy dòng sông La Tinh làm ranh giới. Trong những năm chịu
sự quản lý của chính quyền Sài Gòn nơi đây được gọi là phủ Phù Mỹ. Sau
1975 được đổi thành huyện Phù Mỹ.
Phù Mỹ có 19 đơn vị hành chính cấp xã và 2 thị trấn gồm: thị trấn Phù Mỹ
và Bình Dương, các xã là: Mỹ An, Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Chánh Tây, Mỹ
Châu, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Quang,
Mỹ Tài, Mỹ Thành, Mỹ Thọ, Mỹ Thắng và Mỹ Trinh. Huyện có 2 ga tàu
hỏa thuộc đường sắt bắc — nam là ga Vạn Phú (xã Mỹ Lộc) và ga Phù Mỹ
(thị trấn Phù Mỹ).
Thắng cảnh của Phù Mỹ tuy hoang sơ nhưng tuyệt đẹp như: chùa Hang,

giếng Tiên, và di tích lịch sử Đèo Nhông và đặc biệt là một vùng ven biển
tuyệt đẹp kéo dài từ Vĩnh Lợi (Mỹ Thành) đến Hà Ra (Mỹ Đức). Trong đó
bờ biển Mỹ Thọ cũng tuyệt đẹp với thắng cảnh Mũi Rồng, Bãi Bàng, Hải
Đăng, thuộc thôn Tân Phụng thu hút nhiều khách tham quan của các xã lân
cận. Vùng ven biển Phù Mỹ là nhiều bãi cát dài trong đó có bãi cát từ Xuân
Thạnh (Mỹ An) qua (Mỹ Thắng) đến (Mỹ Đức) là dài nhất. Ngoài ra Phù
Mỹ còn một số thắng cảnh nổi tiếng trong xã và trong huyện thôi.
2. Điều kiện thời tiết, khí hậu
Tỉnh Bình Định nằm trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa. Do sự phức tạp của
địa hình và mặt đệm biến đổi khá lớn nên gió mùa khi vào đất liền đã thay
đổi hướng và cường độ khá nhiều. Nếu xét tới các xu thế chủ yếu có thể
5
phân chia chế độ gió trong năm của tỉnh có gió mùa Đông Bắc; phần phía
Nam của tỉnh có gió Bắc và Tây Bắc. Trong thời kỳ này hướng gió nói
chung tương đối ổn định. Từ tháng 4 - 8 ở phần phía Bắc tỉnh có gió Nam và
Tây Nam; ở phần phía Nam tỉnh chủ yếu có gió Đông Nam và gió Tây, tiếp
theo là gió Tây Bắc và gió Nam.
- Nhiệt độ không khí trung bình năm ở khu vực miền núi biến đổi từ
20,1 - 26,1
o
C, cực đại trung bình 25,0 - 31,7
o
C và cực tiểu 16,5 - 22,7
o
C.
Tại vùng duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0
o
C, nhiệt
độ cực đại 39,9
o

C và cực tiểu 15,8
o
C. Tổng nhiệt độ năm trong tỉnh (tại
Quy Nhơn) đạt 9.636
o
C vượt tiêu chuẩn 9.500
o
C của khí hậu xích đạo.
- Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm 22,5 - 27,9 % và độ ẩm
tương đối từ 79 - 92 % tại khu vực miền núi; tại vùng duyên hải độ ẩm
tuyệt đối trung bình là 27,9 mb, cực đại 32,7 mb và cực tiểu 20,0 mb. Độ
ẩm tương đối trung bình là 79 % và cực tiểu là 31 %.
- Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối
với khu vực miền núi có thêm một mùa mưa phụ từ tháng 5 - 8 do ảnh
hưởng của mùa mưa Tây Nguyên. Mùa khô kéo dài từ tháng 1 - 8. Đối
với các huyện miền núi tổng lượng mưa trung bình năm từ 2.000 - 2.400
mm. Riêng thung lũng sông Kôn từ 1.600 - 2.000 mm. Vùng có tổng
lượng mưa trung bình năm lớn nhất là huyện An Lão (2.400 - 3.200
mm). Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa trung bình năm là 1.751
mm, cực đại là 2.658mm và cực tiểu là 1.131 mm. Tổng lượng mưa
trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống duyên hải. Riêng ở
phía Bắc tỉnh có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
- Về bão: Bình Định nằm ở miền Trung Trung bộ Việt Nam, đây là
miền thường có bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn bờ biển từ
Quảng Nam - Đà Nẵng đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ
vào. Tần suất xuất hiện bão lớn nhất từ tháng 9 - 11.
Nhìn chung, vị trí địa lý và hoàn cảnh khí hậu trên đây của tỉnh đã chi
phối đến các đặc trưng điều kiện tự nhiên khác cũng như chi phối mạnh
mẽ đến các hoạt động phát triển kinh tế của tỉnh. Để khai thác các mặt
thuận lợi và phòng chống các mặt bất lợi cần thiết phải có sự nghiên cứu

6
hệ thống và hiểu biết đầy đủ các quy luật khí hậu để có các giải pháp phù
hợp và kịp thời.
3. Tình hình kinh tế - xã hội
* Con người
Các sử gia triều đình nhà Nguyễn đã ghi nhận về phong thái, đức tính của
người Phù Mỹ trong Đồng Khánh dư địa chí như sau: "Cần kiệm tột bậc là
Phù Mỹ. Chuộng gốc nhiều, theo ngọn ít. Kẻ sĩ siêng cần, giàu chuyên học,
dân cần cù, giản dị".
Phù Mỹ vốn là đất hiếu học của Bình Định, từng sản sinh ra nhiều nhà
khoa bảng trẻ tuổi học rộng tài cao, đức độ và khí phách. Cuối thế kỷ 18 có
Cao Tắc Tựu, Phạm Văn Tung, Trần Bá Hữu, Lê Văn Trung... nổi tiếng văn
võ song toàn, có nhiều đóng góp lớn cho phong trào nông dân Tây Sơn.
Trước 1945, Phù Mỹ chỉ có 2 trường tiểu học ở Trà Quang, An Lương cùng
một số ít trường ở tổng và làng nên nhân dân tự mở ra nhiều trường tư thục,
gia đình học hiệu. Những năm đất nước bị chia cắt, ở cả hai miền Nam -
Bắc, Phù Mỹ đều có nhiều học sinh sinh viên giỏi, điều đặc biệt là họ đều
yêu nước, yêu quê hương và dân tộc Việt Nam.
Kho tàng văn hóa dân gian của Phù Mỹ khá phong phú, số lượng ca
dao, tục ngữ, hò vè... mà các nhà nghiên cứu sưu tầm được trên đất Phù Mỹ
khá nhiều, tiêu biểu nhất có vè Chàng Lía. Văn hóa dân gian ở Phù Mỹ nồng
đượm tình người, giàu hương sắc địa phương. Dân phù Mỹ rất ưa chuộng
dân ca bài chòi và hát tuồng. Hát tuồng rất phổ biến tại những làng chài ven
biển, tại các lễ hội cầu ngư, người ta thường tổ chức hát lăng, biểu diễn chèo
bá trạo. Ở những làng quê phổ biến các hình thức hát hò, hát kết của các đôi
trai gái trao gởi tâm tình... Hát hò, dân ca bài chòi là một trong những hình
thức mà người Phù Mỹ sử dụng nhiều để thể hiện sự giàu có về tâm hồn của
mình.
* Kinh tế
Nói tới Phù Mỹ bây giờ là nói đến chuyện phát triển nghề nuôi tôm trên cát.

Quả thật, về Mỹ An và Mỹ Thắng vào những ngày này, trong câu chuyện
của người dân, ta dễ dàng nhận thấy bóng dáng của con tôm. Ông Huỳnh
Văn Nam – Phó chủ tịch UBND huyện Phù Mỹ cho biết: "Bên cạnh 2.000
ha ao đầm đã được khai thác lâu nay, huyện đã hợp đồng nghiên cứu xây
7
dựng quy hoạch vùng nuôi tôm trên cát để mở rộng khả năng nuôi trồng.
Quy hoạch này do Viện Hải dương học Nha Trang thực hiện, chính Giáo sư
Tiến sĩ Nguyễn Tác An – Viện trưởng chủ trì. Bản quy hoạch đã được các cơ
quan thẩm định đánh giá rất cao. Tiếp đó hợp phần quy hoạch chi tiết được
các chuyên gia của trường Đại học thủy lợi II thực hiện. Kết quả chúng tôi
đã có một vùng nuôi tôm trên cát rộng 500 ha trong đó diện tích rừng chắn
cát rộng 300ha, diện tích hồ nuôi trồng là 200ha. Huyện đã đầu tư hoàn
chỉnh cơ sở hạ tầng đường giao thông, tiêu thoát nước, kéo điện đến chân
công trình ao hồ. 120ha hồ tôm đầu tiên đã được triển khai xong ở Mỹ An,
80 ha còn lại của Mỹ Thắng hiện đang được khẩn trương thực hiện. Khu
nuôi tôm này là điểm nhấn quan trọng để thể hiện năng lực khả năng phát
triển của Phù Mỹ, bởi giá trị kinh tế của con tôm thì ai cũng đã biết rồi!"
Ngoài ra cùng với Tuy Phước, Vân Canh, An Nhơn; Phù Mỹ là huyện có
nguồn đá ốp lát, đá xây dựng thuộc loại phong phú nhất. Chưa có những
cuộc điều tra, khảo sát để đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ tiềm năng,
chủng loại, trữ lượng đá granite của Phù Mỹ (trừ mỏ đá đen tuyền Phù Hà –
Mỹ Hòa được đánh giá sơ bộ có trữ lượng khoảng 4,5 triệu m3) nhưng điều
có thể nói ngay là những loại đá đẹp nhất, có giá trị cao nhất mà thị trường
đang chú ý hầu hết đều có đủ ở huyện này. Có thể kể đến những mỏ đá sắc
xanh ở Mỹ Thành, đá sắc đỏ ở Mỹ Đức, đá sắc trắng, vàng tổ ong, đen tuyền
ở Mỹ Hòa. Cho đến nay trên toàn địa bàn huyện vẫn mới chỉ có 2 đơn vị tổ
chức khai thác đá granite với lượng khai thác hãy còn rất thấp. Một khi quốc
lộ 1A được nâng cấp xong, các cụm công nghiệp được mở rộng, kinh tế phát
triển đồng thời huyện cũng cải thiện sự hấp dẫn của chính sách hỗ trợ, trải
thảm đỏ mời nhà đầu tư thì tình thế sẽ khác hẳn.

Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu quốc gia về tuyển
quặng tinh inmenhite, ziếc côn, rutin... trong sa khoáng biển Bình Định đã
được Viện Địa chất khoáng sản, Viện Luyện kim màu triển khai và cho
những kết quả sơ bộ đáng phấn khởi. Ước tính, Bình Định có khoảng 2 triệu
tấn quặng tinh inmenhite nằm lộ thiên ven biển phân bố khá đồng đều ở hai
huyện Phù Mỹ và Phù Cát. Những thông số này cho phép Phù Mỹ tổ chức
gọi mời đầu tư và khai thác khoáng sản titan là một trong những lĩnh vực mà
Phù Mỹ đã thu hút được nhiều vốn đầu tư. Hiện nay, trên địa bàn đã có 2
8
doanh nghiệp đang tổ chức khai thác sa khoáng titan, 2 doanh nghiệp khác
đang hoàn chỉnh thủ tục để triển khai khai thác
4. Vài nét về công Ty Cổ Phần Chăn Nuôi C.P Việt Nam
C.P Thái Lan là một tập đoàn sản xuất kinh doanh đa ngành nghề và
là một trong những tập đoàn mạnh nhất của Thái Lan trong lãnh vực công -
nông nghiệp, điển hình là lĩnh vực sản xuất lương thực - thực phẩm chất
lượng cao và an toàn cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Với kinh nghiệm
hơn 80 năm phát triển sản xuất kinh doanh, hiện nay tập đoàn C.P Thái Lan
đã mở rộng địa bàn hoạt động đến 20 quốc gia khác nhau với 200 công ty
thành viên, và thu hút một nguồn lao động 200.000 người.
C.P.Việt Nam là thành viên của C.P.Thái Lan , được cấp giấy phép
đầu tư số 545A/GP vào năm 1993 với hình thức 100% vốn đầu tư nước
ngoài. Các lĩnh vực đầu tư sản xuất kinh doanh tại Việt Nam hiện nay bao
gồm : hạt giống, thức ăn chăn nuôi và thuỷ sản, giống heo, gà và thủy sản,
thiết bị chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, nuôi gia công heo, gà và chế biến
thực phẩm.
Trong lĩnh vực chế biến thức ăn gia súc tại Việt Nam, tập đoàn C.P đã
xây dựng 2 nhà máy sản xuất thức ăn gia súc tại miền nam thuộc công ty C.P
và một nhà máy sản xuất thức ăn gia súc tại miền bắc thuộc công ty Charoen
Pokphand. Thức ăn gia súc của công ty hiện được tiêu thụ trên thị trường
thông qua hệ thống phân phối : Cấp 1 , cấp 2 và trại trực tiếp .Được phục vụ

và phát triển bởi đội ngũ Bác sĩ thú y, Kỹ sư Chăn Nuôi tốt nghiệp từ các
trường đại học Nông Nghiệp trong nước và nước ngoài theo tiêu chí : Chất
lượng là hàng đầu, không ngừng phát triển công nghệ tiên tiến và quản lý
theo tiêu chuẩn ISO 9001 để vật nuôi được phát triển hoàn toàn tiềm năng di
truyền và nâng cao thành tích sản xuất, an toàn cho con người khi tiêu thụ
vật nuôi ( không có hoocmon tăng trưởng mà bộ Nông nghiệp và phát triển
Nông Thôn nghiêm cấm ), an toàn cho môi trường .
Để hổ trợ cho việc phát triển ngành thức ăn gia súc, giúp ngành chăn
nuôi của Việt Nam phát triển theo hướng nông nghiệp và nâng cao hiệu quả
cho các trang trại, Công Ty đã xây dựng : Nhà máy dụng cụ và thiết bị chăn
nuôi tại khu công nghiệp Biên Hòa 2 Tỉnh Đồng Nai, 3 Trại gà giống Bố Mẹ
và 3 Nhà máy Ấp Trứng tại Tỉnh Đồng Nai.
9
Nhiều trại heo giống ông bà ở các tỉnh : Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình
Dương, Lâm Đồng ...
Nhà máy thứ 4 đang được khởi công xây dựng và sẽ đi vào hoạt động
tháng 1 năm 2008 tại khu công nghiệp Mỹ Phước với công suất 35.000 tấn
/tháng . Đây là nhà máy có công nghệ sản xuất hiện đại nhất khu vực Đông
Nam Á.
Với đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm của Phòng thu mua, phòng thí
nghiệm, phòng bán hàng, phòng kỷ thuật ….và được sự hổ trợ của các
chuyên gia của tập đoàn C.P trên thế giới . Ngành thức ăn gia súc của công
ty C.P.Việt Nam luôn đứng đầu về chất lượng và doanh số bán hàng trên thị
trường.
Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Bình Đinh III,
nằm ở thôn Xuân Thạnh xã Mỹ Ăn huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định. Trại
giống được xây dựng với diện tích khoảng 6ha. Đây là mọt trong những trại
sản xuất tôm giống lớn nhất Việt Nam, sản xuất giống dựa trên công nghệ
tiên tiến của Thái Lan. Hệ thống trại bao gồm:
- Hệ thống văn phòng làm việc của ban giám đốc

- Khu nhà nghỉ của giám đốc và công nhân viên.
- Bộ phận thí nghiệm gồm: 1 phòng Vi khuẩn, 2 phòng PCR, 1 phòng
kiểm tra chất lượng nước, 1 phòng kiểm định chất lượng, 1 phòng nuôi cấy
tảo thí nghiệm ( Lab), 1 nhà ấp Artemia, 1 nhà nuôi tảo ống, 8 nhà nuôi tảo
sinh khối ( Mass).
- Khu tôm bố mẹ (Maturation) gồm 4 nhà, mỗi nhà có 32 bể x 24m
2
.
- Khu ương nuôi ấu trùng gồm 24 nhà mỗi nhà có 14 bể x 10m
3
.
Và hệ thống bể chứa và xử lý nước.
II. VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM THẺ CHÂN
TRẮNG
1. Đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng
1.1. Hệ thống phân loại, đặc điểm hình thái cấu tạo và phân bố của Tôm
Thẻ Chân Trắng ( Litopenaeus vannamei Boone, 1931)
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
1.1.1. Hệ thống phân loại
Ngành: (chân khớp) Arthropoda
10
Lớp: (Giáp xác) Crustacea
Bộ: (Mười chân) Decapoda
Bộ phụ: (Bơi) Natantia
Họ: (Tôm he) Penaeidae
Giống: (Tôm he) Penaeus
Loài: Penaeus vannamei , Boone 1931.
Tên gọi
Tên tiếng Anh : WhiteLeg shrimp
Tên khoa học : Penaeus vannamei (Boone, 1931)

Tên thường gọi : Tôm bạc Thái Bình Dương, tôm bạc bờ Tây châu Mỹ,
Camaron blanco, Langostino.
Tên của FAO : Camaron patiblanco.
Tên Việt Nam : Tôm Thẻ Chân Trắng
1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo
Cơ thể chia làm hai phần: đầu ngực (Cephalothorax) và phần bụng
(Abdomen)
 Phần đầu ngực có 14 đôi phần phụ bao gồm:
+ Chủy tôm gồm có 2 răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng.
+ 1 đôi mắt kép có cuống mắt.
+ 2 đôi râu: Anten 1(A1) và Anten 2(A2). A1 ngắn, đốt 1 lớn và có hốc mắt,
hai nhánh ngắn. A2 có nhánh ngoài biến thành vẩy râu (Antennal scale),
nhánh trong kéo dài. Hai đôi râu này giữ chức năng khứu giác và giữ thăng
bằng.
+ 3 đôi hàm: đôi hàm lớn, đôi hàm nhỏ 1 và đôi hàm nhỏ 2.
+ 3 đôi chân hàm (Maxilliped) có chức năng giữ mồi, ăn mồi và hỗ trợ hoạt
động bơi lội của tôm.
+ 5 đôi chân bò hay chân ngực (walking legs), giúp cho tôm bò trên mặt đáy.
Ở tôm cái, giữa gốc chân ngực 4 và 5 có thelycum ( cơ quan sinh dục ngoài,
nơi nhận và giữ túi tinh từ con đực chuyển sang).
 Phần bụng có 7 đốt: 5 đốt đầu, mỗi đốt mang một đôi chân bơi hay
còn gọi là chân bụng ( Pleopds hay Swimming legs). Mỗi chân bụng có một
đốt chung bên trong. Đốt ngoài chia làm hai nhánh: Nhánh trong và nhánh
11
ngoài, đốt bụng thứ 7 biến thành telson hợp với đôi chân đuôi phân thành
nhánh tạo thành đuôi giúp cho tôm chuyển động lên xuống và búng nhảy. Ở
tôm đực, hai nhánh trong của đôi chân bụng 2 biến thành đôi phụ bộ đực- là
bộ phận sinh dục bên ngoìa của tôm.
Màu sắc của tôm: tôm có màu trắng đục.
1.1.3. Đặc điểm phân bố và nguồn gốc

Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển
xích đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh), phân bố chủ
yếu ở ven biển Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, từ ven biển Mexico đến
miền trung Pêru, nhiều nhất ở biển gần Ecuador . Hiện nay tôm chân trắng
đã có mặt hầu hết ở các khu vực ôn và nhiệt đới bao gồm Đài Loan, Trung
Quốc và các nước ven biển thuộc khu vực Đông Nam Á.Tôm Thẻ Chân
Trắng có thể sống ở độ sâu 72m, đáy bùn, nhiệt độ nước ổn định từ 25-
32°C, độ mặn từ 28- 34 ‰, pH từ 7,7- 8,3 , giai đoạn tôm con sống ở vùng
cửa sông, giai đoạn trưởng thành sống ở biển sâu.
1.2. Đặc điểm sinh trưởng và sự lột xác
1.2.1 Các thời kỳ phát triển và vòng đời của Tôm Thẻ Chân Trắng
(Litopenaeus vannamei Boone, 1931)
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
a) Các thời kỳ phát triển của Tôm Thẻ Chân Trắng
 Thời kỳ phôi
Thời kỳ phôi bắt đầu từ khi trứng thụ tinh đến khi trứng nở, thời gian
phát triển phôi tùy thuộc vào nhiệt độ nước.
 Thời kỳ ấu trùng
Ấu trùng Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua nhiều lần lột xác và biến thái
hoàn toàn, gồm các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn Nauplius (N):
Ấu trùng N của Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua 6 lần lột xác và có 6
giai đoạn phụ ( N
1
- N
6
). Ấu trùng N bơi lội bằng bằng 3 đôi phần phụ, vận
động theo kiểu zic zắc, không định hướng và không liên tục. Chúng chưa ăn
thức ăn ngoài mà dinh dưỡng bằng noãn hoàng dự trữ.
+ Giai đoạn Zoea (Z):

12
Giai đoạn Z có 3 giai đoạn phụ (Z
1
– Z
3
) thay đổi hẳn về hình thái so
với N. Ấu trùng Z bơi lội nhờ hai đôi râu (đôi 1 phân đốt đôi 2 phân nhánh
kép) và 3 đôi chân hàm phân nhánh. Chúng bơi lội liên tục có định hướng về
phía trước, ấu trùng Z bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài. Thức ăn chủ yếu là thực
vật nổi với hình thức chủ yếu là ăn lọc. Ở giai đoạn này, ấu trùng ăn mồi liên
tục, ruột luôn đầy thức ăn và thải phân liên tục tạo thành đuôi phân kéo dài ở
phía sau- đây là đặc điểm để nhận biết giai đoạn này. Vì vậy khi nuôi ấu
trùng Z, thức ăn cần được cung cấp đạt mật độ thích hợp, đảm bảo cho việc
lọc thức ăn của ấu trùng. Ngoài hình thức ăn lọc, ấu trùng Z vẫn có khả năng
bắt mồi và ăn được các động vật nổi có kích thước nhỏ ( Nauplius của
Artemia, luân trùng...) đặc biệt vào cuối giai đoạn này-Z3. Mỗi giai đoạn
phụ của ấu trùng Z thườnh kéo dài khoảng 30- 40h, trung bình 36h ở nhiệt
độ 28-29°C.
+ Giai đoạn Mysis (M):
Giai đoạn này gồm có 3 giai đoạn phụ ( M
1
- M
3
), ấu trùng M sống
trôi nổi có đặc tính treo ngược mình trong nước, đầu chúc xuống dưới. Ấu
trùng M bơi lội kiểu búng ngược, vận động chủ yếu nhờ vào 5 đôi chân bò.
Ấu trùng M bắt mồi chủ động, thức ăn chủ yếu là động vật nổi. Tuy nhiên,
chúng vẫn có thể ăn tảo Silic, đặc biệt là ở giai đoạn phụ M
1
và M

2
. Thời
gian chuyển giai đoạn của M cũng gần giống với giai đoạn Z.
+ Giai đoạn Postlarvae (PL):
Hậu ấu trùng PL đã có hình dạng của loài nhưng sắc tố chưa hoàn
thiện, nhánh trong anten 2 chưa kéo dài. PL bơi thẳng có định hướng về phía
trước, bơi lội chủ yếu nhờ vào 5 đôi chân bụng, PL hoạt động nhanh nhẹn và
bắt mồi chủ động, thức ăn chủ yếu ở giai đoạn này là động vật nổi. Tuổi của
PL được tính theo ngày, đầu giai đoạn PL sống trôi nổi, từ PL
3
hoặc PL
5
trở
đi chúng bắt đầu chuyển sang sống đáy, PL chuyển sang sống đáy hoàn toàn
ở PL
9
– PL
10
.
Trong phân chia các giai đoạn ở vòng đời Tôm Thẻ Chân Trắng từ khoảng
PL
5
trở đi được gọi là giai đoạn ấu niên.
 Thời kỳ ấu niên
Ở thời kỳ này, hệ thống mang của tôm đã hoàn chỉnh. Tôm chuyển
sang sống đáy, bắt đầu bò bắng chân và bơi bằng chân bơi. Anten 2 và sắc tố
13
thân ngày càng phát triển. Thời kỳ này tương đương với cuối giai đoạn tôm
bột và đầu tôm giống trong sản xuất tức là PL
5

- PL
20
.
 Thời kỳ thiếu niên
Tôm bắt đầu ổn định tỷ lệ chân, thelycum và petasma được hình thành
nhưng chưa hoàn chỉnh, hai nhánh của petasma còn tách biệt. Giai đoạn này
tương đương với giai đoạn ương giống và nuôi thịt trong sản xuất. Cuối thời
kỳ ấu niên bắt đầu xuất hiện sự sinh trưởng không đồng đều giữa 2 giới tính-
con cái lớn nhanh hơn con đực.
 Thời kỳ sắp trưởng thành
Tôm trưởng thành về mắt sinh dục: cơ quan sinh dục ngoài đã hoàn
thiện, tôm đực bắt đầu có tinh trùng trong túi tinh, tôm cái đã tham gia giao
vỹ lần đầu. Hiện tượng sinh trưởng không đồng đều giữa 2 giới tính thể hiện
rõ rệt hơn trong thời kỳ này.
 Thời kỳ trưởng thành
Tôm có khả năng tham gia sinh sản, chúng sống ở vùng xa bờ, nơi có
đodj trong cao và độ mặn ổn định.
b) Vòng đời của Tôm Thẻ Chân Trắng
Ở thời kỳ ấu niên và thiếu niên Tôm Thẻ sống ở vùng cửa sông. Ở
giai đoạn sắp trưởng thành và trưởng thành, khi tôm có thể tham gia sinh sản
lần đầu thì chúng sống ở vùng triều ở độ sâu khoảng 7- 20m nước. Đối với
những con trưởng thành và sản phẩm sinh dục đã chín hoàn toàn thì chúng di
chuyển ra vùng biển khơi ở độ sâu khoảng 70m nước và tham gia sinh sản
tại đây.
Trứng và ấu trùng Mysis sống và phát triển tại vùng biển khơi theo
dòng nước trôi dạt vào bờ. Khi đến vùng triều thì ấu trùng đã chuyển sang
giai đoạn Postlarvae và tiếp tục theo thủy triều trôi dạt vào vào vùng cửa
sông, phát triển thành ấu niên và tiếp tục vòng đời của chúng.
1.2.2 Đặc điểm sinh trưởng của Tôm Thẻ Chân Trắng
(Litopenaeus vannamei Boone, 1931)

(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
Sự tăng trưởng về kích thước của Tôm Thẻ có dạng bậc thang, thể
hiện sự sinh trưởng không liên tục. Kích thước giữa hai lần lột xác hầu như
không tăng hoặc tăng không đáng kể và sẽ tăng vọt sau mỗi lần lột xác.
14
Trong khi đó sự tăng trưởng về trọng lượng có tính liên tục hơn. Tôm Thẻ có
tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh, tốc độ tăng trưởng tùy thuộc vào từng
loài, từng giai đoạn phát triển, giới tính và điều kiên môi trường, dinh
dưỡng...
Từ ấu trùng đến đầu thời kỳ thiếu niên, không có sự khác biệt về tốc
độ tăng trưởng giữa tôm đực và tôm cái. Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối thời kỳ
thiếu niên, con cái lớn nhanh hơn con đực.
 Sự tăng trưởng của ấu trùng
Sự tăng truởng về chiều dài của ấu trùng tôm như sau: Giai đoạn
Nauplius tăng trên dưới 10%/1 lần lột xác. Lần lột xác từ N
6
chuyển sang Z
1
chiều dài tăng 86%, gần gấp 2 lần, và đây cũng là lần tăng chiều dài lớn nhất
trong vòng đời của Tôm Thẻ. Từ Z
1
chuyển sang

Z
2
tăng 25%, Z
2
chuyển
sang Z
3

tăng 13,7% ( giảm ½ so với từ Z
1
sang Z
2
), Z
3
chuyển sang M
1
tăng
13,2%. M
1
chuyển sang

M
2
và M
2
chuyển sang M
3
tăng >20%. M
3
chuyển
sang P
1
tăng 12,6%. Trong giai đoạn Postlarvae, sự tăng trưởng về chiều dài
không đều, đa số ≤ 10%/ lần lộ xác.
Tỉ lệ chiều rộng và chiều dài cơ thể (R/D) lớn nhất ở giai đoạn
Nauplius (50%). Riêng N
1
, R/D = 53,1%. Tỉ lệ này giảm trong quá trình sinh

trưởng, sau mỗi lần lột xác cơ thể thon hơn. Tỉ lệ R/D thấp nhất từ P
1
đến P
4
(R/D = 1/10), sau đó tăng lên từ P
5
đến P
13
và giảm từ P
13
đến P
17.
Từ P
17
đến
P
21
, tỉ lệ R/D ổn định, đánh dấu sự chuyển sang thời kỳ ấu niên.
Tỉ lệ chiều dài giáp đầu ngực và chiều dài toàn thân (CL/ TL): từ P
1
đến P
14
: 27-28%, từ P
15
đến P
21
: 32%, từ P
21
trở đi sắp xỉ 30% và hầu như
không thay đổi nữa, đánh dấu sự chuyển sang thời kỳ thiếu niên.

Từ ấu niên đến trưởng thành
Tôm ấu niên tăng trưởng CL 1-2mm/tuần, tương đương với TL
0,8mm/ngày. Trong tuần đầu tôm tăng khối lượng thân gấp 6 lần. Khi vào
trong cửa sông 6-7 tuần, tốc độ tăng trưởng giảm, chỉ còn gấp 2 lần/ 2 tuần.
Khi đạt CL ≈ 10mm, tốc độ tăng trưởng bắt đầu có sự khác biệt giữa hai
giới.
Trong thực tế sản xuất, P
10
có chiều dài thân từ 9- 11mm sau 7- 10
ngày ương đạt cỡ 1-2 cm (TL), sau 15- 20 ngày đạt cỡ 2- 3cm, sau 20- 25
ngày đạt cỡ 3- 5 cm và sau 25- 30 ngày đạt cỡ 4- 6 cm. Nếu thả nuôi trong
15
ao từ P
15
sau 1 tháng nuôi đạt khoảng 1-2 g/con. Tôm nuôi 4 tháng đạt kích
cỡ thương phẩm, đa sỗ loại 3 (30- 40 con/kg), một số loại 2 (20- 30 con/kg).
Ở những ao nuôi điều kiện tốt (độ mặn 10- 25‰) tôm tăng trưởng nhanh có
thể thu hoạch đạt loại 3, loại 2 sau 2,5 – 3 tháng nuôi.
 Tuổi thọ của tôm Thẻ
Tôm Thẻ có tuổi thọ ngắn, tuổi thọ của tôm đực thấp hơn tôm cái.
Trong điều kiện sinh thái tự nhiên, nhiệt độ nước 30- 32°C, độ mặn 20- 40‰
từ tôm bột đến thu hoạch mất 180 ngày, cỡ tôm thu trung bình 40g/con,
chiều dài từ 4cm tăng lên tới 14cm. Tuổi thọ trung bình của Tôm Thẻ > 32
tháng.
c) Sự lột xác
 Cơ chế sinh học của quá trình lột xác
Để sinh trưởng được, tôm cũng như tất cả các động vật chân khớp
khác phải tiến hành lột xác. Sự lột xác chỉ là kết quả cuối cùng của 1 quá
trình phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn, được chuẩn bị từ nhiều ngày hoặc
nhiều tuần trước đó. Quá trình chuẩn bị diễn ra ở tất cả các mô có liên quan

thông qua hoạt động như: huy động nguồn lipid dự trữ ở gan, tụy, sự phân
bào gia tăng và các ARN thông tin được tạo thành và tiếp theo là quá trinh
sinh tổng hợp các protein mới. Trong thời gian này trạng thái của tôm cung
thay đổi.
+ Giai đoạn sau lột xác
Là giai đoạn kế tiếp ngay sau khi tôm lột xác. Đây là khoảng thời gian
từ khi nước được hấp thụ và máu qua biểu bì, mang, ruột để làm tăng thể
tích máu, căng lớp vỏ mới còn mềm dẻo cho đến khi lớp vỏ mới đã cứng lại.
Giai đoạn này có thể kéo dài đối với tôm lớn hoặc vài giờ đối với tôm nhỏ.
+ Giai đoạn giữa lột xác
Đây là giai đoạn dài nhất theo sự phân chia này. Suốt giai đoạn này võ
đã xứng lại nhờ sự tích tụ chất khoáng và protein. Vỏ dày và đầy đủ cả 3
phần.
+ Giai đoạn trước lột xác
Lớp mô sừng ngoài nới hình thành vào đầu giai đoạn trước lột xác.
Cuối giai đoạn trước lột xác hình thành tiếp lớp giữa mô sừng mới. Lúc này
lớp vỏ cũ đã bong ra khỏi lớp biểu bì ở phía dưới làm cho vỏ tôm có màu
16

×