Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tám đặc điểm của Trần thức Thái cực quyền(Phần 3) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.18 KB, 7 trang )

Tám đặc điểm của Trần thức
Thái cực quyền(Phần 3)



ĐẶC ĐIỂM THỨ BA: VẬN ĐỘNG XOẮN ỐC CỦA TRIỀN
TY THUẬN NGHỊCH

Quyền phổ quy định:

“Vận kình như trừu ty
Vận kình như triền ty
Nhậm quân khai triển dữ thu liễm
Thiên vạn bất khả ly thái cực
Diệu thủ nhất vận nhất thái cực
Tích tượng hoá hoàn quy ô hữu”

(Tạm dịch: Vận kình như kéo tơ, quấn tơ. Dù khai triển hoặc thu
liễm trăm ngàn lần không thể rời thái cực. Người giỏi mỗi cử động phù
hợp thái cực, khiến người ngoài không thể biết được ).

Bốn quy định trên đây cho thấy vận động TCQ rất gần như hình
dạng kéo tơ . Kéo tơ là vừa xoay vừa kéo, vì trong động tác có thẳng có
xoay tròn tự nhiên hình thành theo đường xoắn ốc. Đây là sự thống nhất
của hai mặt đối lập cong và thẳng . Nói triền ty kình hoặc trừu ty kình
đều là chỉ ý này, là vì trong quá trình triền ty sự co duỗi của tứ chi cũng
sinh ra hình xoắn ốc. Bởi vậy quyền luận nói cho dù động tác khai triển
lớn hoặc động tác khẩn tấu nhỏ lớn đều không bao giờ có thể rời khỏi
thái cực kình thống nhất, đối lập này . Sau khi luyện thuần thục ,vòng
triền ty này càng luyện càng nhỏ , đạt đến cảnh giới có khuyên mà
không thấy có khuyên .Đến lúc đó chỉ còn là ý biết mà thôi . Cho nên


vận động xoắn ốc thống nhất các mặt đối lập của thuận nghịch triền ty
được coi là đặc điểm của TCQ.

1.Thực chất của vận kình triền ty

TCQ yêu cầu vận kình như triền ty (quấn tơ) hoặc nói vận kình
như trừu ty (kéo tơ). Hai cách ví này đều nói lên hình tượng vận động
như xoắn ốc. Đồng thời theo một đường cong , tựa như viên đạn sau khi
thông qua đường khương tuyến trong nòng súng ống khi bay trong
không gian , bản thân tự xoay quanh trục của nó lại bay theo đường vận
động của vật được ném đi. Triền ty kình của TCQ mang dáng dấp của
hình tượng này.

Trước đã nói rõ , vận động TCQ cần có hình như quấn tơ,vậy
trong thực tế phải vận hành như thế nào ? Thực ra rất đơn giản , tức tại
yêu cầu nhất động toàn động,động tác lòng bàn tay xoay từ trong ra
ngoài hoặc từ ngoài vào trong đều lấy sự xoay chuyển ngón trỏ làm tiêu
chuẩn .Như trong Hình 1, bàn tay từ điểm 1 tới điểm 2.

Lúc này ngón trỏ xoay từ trong ra ngoài gọi là thuận triền(xoay
thuận);bàn tay từ điểm 2 tới điểm 3,ngón tay trỏ xoay từ ngoài vào
trong gọi là nghịch triền(xoay nghịch).


2.Tác dụng của vận kình triền ty

Khi luyện quyền , nắm tay co duỗi thẳng mà không xoay chuyển
lòng bàn tay , nếu như chân chỉ "tiền cung hậu toạ" mà không xoay
chuyển phối hợp tả hữu thì sẽ phát sinh khuyết điểm chỏi lực "đỉnh
kháng" ( Hình 2 ).Để sửa sai khuyết điểm này cần phải sử dụng kình

xoắn ốc bởi vì khúc suất của vòng xoắn ốc thường biến đổi , do sự xoay
chuyển nên bất cứ áp lực nào ép lên một vật đang xoay đều tự nhiên bị
sự xoay chuyển làm trước. Để sửa sai khuyết điểm này cần tự nhiên bị
sự xoay chuyển làm trượt đi mà "lạc không".Đây là phép "hoá kình"
theo khoa học ( Hình 3 ) cho thấy tác dụng của nó.

Triền ty có dạng xoắn ốc là nguyên lai của TCQ . Loại vận động
xoắn ốc này là phương thức vận động độc đáo của quyền thuật Trung
Quốc, hiếm có trên thế giới . Trên phương diện rèn luyện thể lực , nó
khiến cho toàn thân chuyển động tiết tiết quán xuyến, nhờ đó tiến đến
cảnh giới một động không chỗ nào không động (nhất động vô hữu bất
động) của công phu '"nội ngoại tương hợp". Nó có tác dụng xoa bóp nội
tạng .Đồng thời khiến cho thần khí bên ngoài phát sinh cổ đãng, làm
mạnh vỏ đại não, từ đó tiến thêm một bước là làm mạnh khoẻ các tổ
chức khí quan toàn thân.

3.Chủng loại và yếu điểm của triền ty kình

Dựa theo tính năng ,có thể chia triền ty kình TCQ thành hai loại
cơ bản : một loại là thuận triền ty, đó là lòng bàn tay xoay lật từ trong
ra ngoài , trong thuận triền ty tuyệt đại đa số là “bằng kình” (Nét vẽ liền
trong Hình 1).Loại còn lại gọi là nghịch triền ty, đó là lòng bàn tay
xoay lật từ ngoài vào trong , trong nghịch triền ty hầu hết là “loát kình”
(Nét vẽ rời trong Hình 2).Hai loại kình này đồng thời quán xuyến từ
đầu chí cuối trong suốt quá trình vận động của TCQ. Vì vậy có thể nói
trong mỗi động tác TCQ đếu có sự chuyển hóa lẫn nhau của bằng kình,
loát kình, chúng có sự mâu thuẫn cơ bản trong vận động, đồng thời lại
chuyển hóa thành nhất nguyên. Cả hai loại kình này có sự biến đổi khác
nhau tùy theo phương vị của từng động tác, đồng thời chia thành năm
cặp phương vị triền ty khác nhau (Hình 4). Các hướng thượng hạ, tả

hữu hợp thành một vòng tròn tổng thể, đồng thời kết hợp với bên trong
và bên ngoài biến hình tròn theo mặt phẳng thành hình tròn lập thể, đây
chính là nét đặc sắc vốn có của vận động triền ty TCQ. Ngoài ra, kết
hợp tả hữu phùng nguyên khi luyện quyền, tiến thoái linh hoạt cùng với
phương vị triền ty, đáp ứng yêu cầu luyện thân và phòng thân. Trong
mỗi động tác, quyền thức TCQ, dựa trên cơ sở của triền ty thuận
nghịch, ít nhất cần phải có sự kết hợp của ba cặp phương vị để thực
hiện vận động. Nếu nắm được quy luật này thì sẽ có được đường vận
động cong xoắn ốc, hỗ trợ rất nhiều cho việc luyện quyền hay sửa
quyền.

a).Động tác “Vân thủ”

Đây là quyền thức duy nhất trong thập tam thế, bao hàm "song
thuận chuyển thành song nghịch, tả hữu đại triền ty". Khi vận động ,
triền ty cơ bản của hai tay là lòng bàn tay thuận truyền từ trong ra ngoài
chuyển thành nghịch triền từ ngoài vào trong, phương vị triền ty của nó
là trái phải trên dưới và hơi có hướng trong ngoài. Vòng tròn tả
hữu,trên dưới là một hình tròn phẳng, nhưng nếu làm cho hình tròn ấy
hơi có hướng trong ngoài thì nó có thể thành một hình tròn lập thể trong
không gian, có thể đạt tới công dụng "khí thiếp tích bối"

b).Động tác “Bạch hạc lượng xí”

Triền ty cơ bản của nó là một thuận một nghịch, là loại triền
ty tương đối phổ biến trong giá thức , phương vị triền ty của nó là
trên dưới và trong ngoài.Triền ty một thuận một nghịch có nghĩa là
tay trái nghịch triền hướng vào trong, hướng xuống; tay phải thuận
triền hướng ra ngoài, hướng lên. Hai động tác này hợp lại, yêu cầu
"lưỡng bát tương bộ"(lúc vận động hai cánh tay giống như có một

sợi dây cột lại với nhau khiến dạng thức của chúng hỗ tương nhau,
yêu cầu hai tay phối hợp) làm thành một "bằng khuyên"(vòng tròn
phẳng) chia ra trái nghịch phải thuận và trái xuống phải lên.

Các thí dụ trên cho thấy rõ, quyền thức TCQ tuy có nhiều dạng
hoa mỹ chuyển hoán khác nhau nhưng dựa theo triền ty cơ bản của nó
mà xét thì cực kỳ đơn giản . Các quyền thức đại khái không ngoài tổ
hợp của ba loại "song thuận triền ty", "song nghịch triền ty" và "nhất
thuận nhất nghịch triền ty". Nếu dựa theo pháp phân tích này và dò xét
cách đi quyền của mình mà liệt kê thành biểu thì có thể là chổ dựa cho
sự luyện tâp của chính mình.Có được chỗ dựa này rồi, ắt có thể phân
biệt rõ ràng các loại kình , đạt đến "nội ngoại tương hợp và tiết tiết quán
xuyến trên cơ sở nâng cao đàn tính đạt tới yêu cầu tư thế chính xác.


(Còn Tiếp)

×