Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Khảo sát về Ngũ hành quyền của Thiếu Lâm pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.13 KB, 10 trang )

Khảo sát về Ngũ hành quyền của
Thiếu Lâm

I-Nguồn gốc, lý thuyết:
Do phát xuất từ Trung Hoa, những phái võ này được xây dựng trên căn bản triết
học phương Đông Theo đó, Thái cực là nguồn gốc chính phát sinh ra vạn vật Thái
cực sinh lưỡng nghi tức nhị khí âm dương. Lưỡng nghi sinh tứ tượng tức bốn mùa
hay bốn phương chính
Tứ tượng sinh bát quái tức tám hướng hay tám hiện tượng chính trong thiên nhiên.
Đó là nói về vũ trụ, thiên nhiên. Còn vạn vật được cấu tạo bởi năm thành phần
chính là : “ngũ hành” kim (kim loại), mộc (gỗ, thảo mộc), thủy (nước), hỏa (lửa),
thổ (đất). Mỗi năm được ghép bởi một thiên can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ,
canh, tân, nhâm, quý) và một địa chi (tý, sửu, dần, mẹo, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân,
dậu, tuất, hợi) mà ngôn ngữ dân gian thường gọi là mười hai con giáp. Sự kết hợp
giữa can, chi ứng vào năm sinh của mỗi người sẽ quyết định người đó thuộc mạng
gì: thủy. hoả, kim, mộc hay thổ? Người thầy tùy theo mạng của đệ tử mà quyết
định một, hai hay ba lối tập luyện thích hợp. Có năm lối tập luyện theo lý thuyết
ngũ hành dựa theo mạng số người theo học là : Kim quyền, Mộc quyền, Thổ
quyền, Thủy quyền, và Hỏa quyền.
Ngũ hành có sự tương sinh (hợp) và tương khắc (kỵ) như sau :
-Thuỷ sinh mộc, khắc, thổ, hỏa. Nước làm cho thảo mộc tươi tốt nhưng làm cho
đất bị úng lụt, dập tắt lửa.
-Mộc sinh thổ, khắc hỏa, kim. Cây cỏ cho đất đai mầu mỡ nhưng bị thiêu cháy bởi
lửa và chặt đứt bởi kim loại.
-Thổ sinh hỏa, khắc kim, thủy. Đất sinh lửa (những xác thực, động vật chôn vùi
lâu ngày dưới đất biến thành khí cháy) nhưng bị úng lụt bởi nước và cày xới bởi
kim loại. Thổ là một hành trung dung giữa bốn hành kia nên phần tương sinh
nhiều hơn là tương khắc.
-Hỏa sinh kim, khắc mộc, thủy. Lửa trui rèn kim loại. nhưng đốt cháy thảo mộc và
bị nước dập tắt.
-Kim sinh thủy, khắc thổ, mộc. Kim loại khơi nguồn nước, cắt đứt cây cỏ, cày xới


đất
Sự tương sanh, tương khắc của Ngũ hành đã được áp dụng vào võ thuật. Một môn
sinh được truyền dạy môn hành quyền của mạng và hai hành quyền tương sinh Ví
dụ người mạng Hỏa sẽ được dạy Hỏa quyền và hai môn tương sanh với Hỏa là
Kim quyền và Thổ quyền. Học như vậy dễ đạt được kết quả mau chóng hơn là tập
luyện võ thuật mà không lưu tâm gì đến lý thuyết Ngũ hành. Một người mạng Hỏa
mà học Thủy quyền sẽ khó mong thành tựu. Đôi khi do sự tương khắc của mạng
và hành của môn võ còn đem đến những hậu quả xấu tai hại cho người học như rối
loạn luồng khí, tẩu hỏa nhập ma.

II- Những cách tập luyện
Ngũ hành quyển có năm cách tập luyện khác nhau. Mỗi cách gồm năm phần:
1 / Tấn pháp
2/ Đòn thế
3/ Nội, ngoại công
4/ Sự tập trung tinh thần hay suy tưởng thiền định
5/ Quyền pháp
Việc luyện tập tấn pháp và đòn thế cũng giống như những môn phái khác gồm
Thập nhị lập tấn (12) và Thất thập nhị (72) hay Thập linh bát (108) huyền công.
Riêng ba phần sau có sự khác biệt rõ rệt trong cách luyện tập của mỗi môn hành
quyền:
Hỏa Quyền
Giờ tập luyện (áp dụng chung cho cả Mộc quyền. Kim quyền.) 3 đến 5 giờ sáng
tức giờ Dần, khí vận chuyển ở Kinh Thái âm Phế từ ngực ra hai tay 3 đến 5 giờ
chiều tức giờ Thân, khí vận chuyển ở Kinh túc Thái dương bàng quang từ sống
lưng ra hai chân. Đây là hai thời khắc khí âm dương vượng nhất trong ngày (Thái
âm – Thái dương).
Luyện công vào các giờ này sẽ hấp thu được vượng khí âm dương của thiên nhiên,
tăng cường sự lưu thông của khí ra tay chân khiến nội lực ngày càng mạnh. Chú ý
cần nắm vững qui luật và đường vận hành của khí. Địa điểm ngời trời, khí lạnh

môn sinh phải tập luyện làm sao cho thân thể như một lò lửa nóng, đẫm mồ hôi
trong khi trời lạnh
Các giai đoạn tập luyện :
Mở đầu, môn sinh tọa thiền tập trung tư tưởng, lửa có màu đỏ nên người tập có thể
dùng một ngọn đèn đỏ đặt trước mắt để tập trung tư tưởng làm sao cho màu đỏ
ngập tràn trong đầu óc, sau đó dùng ý tưởng tượng có một đốm lửa nhỏ cháy rực ở
đan điển (huyệt dưới rún nơi tập trung Tinh) chuyển lên Đản trung (huyệt ở chấn
thủy nơi tụ hội Khí) lên Hà đạo thanh (huyệt giữa hai chân mày nơi tụ Thần).
Khi ba nơi này đã nóng lên, môn sinh dùng ý hợp nhất chúng lại (hợp nhất Tinh –
Khí – Thần) Kế đó tưởng tượng đốm lửa hợp nhất này cháy thành một dây lửa
suốt các đường kinh mạch (vòng Đại chu thiên) và lên xuống hai mạch Nhâm Đốc
(vòng Tiểu chu thiên) như có một con rồng lửa bay suốt khắp trong cơ thể. Công
phu này là một đặc dị cổ bí truyền có tên Hỏa long công Sau khi khai thông huyệt
mạch bằng luồng hỏa khí, môn sinh xả thiển, bắt đầu tập các kỹ thuật đòn thế và
các bài quyền của Hỏa quyền. Đặc điểm của các đòn thế và bải quyền này là
nhanh, mạnh, dứt khoát hàm chứa một ít nóng nảy. Môn ngoại công nổi tiếng của
Hỏa quyền là Thiết hỏa sa chưởng. Môn sinh thọc hai tay xuống một chảo cát
đang rang nóng trên lửa, thời gian sau xuống một chảo đá sỏi rồi một chảo vụn sắt,
cuối cùng là một một chảo chì nóng chảy.
Môn sinh luyện thành công Thiết hỏa sa chưởng có thể “gửi tặng” cho địch thủ
những đòn “hỏa công” hay “thiết thủ” có khi làm chín cả một vùng da thịt bị dính
đòn!
Môn sinh Hỏa quyền thường là những người nhiệt thành, cương quyết có phần hơi
nóng nảy. Khi họ đã dự định làm một việc gì, nhiệt tình của họ như lửa một hỏa
diệm sơn luôn âm ỉ, ngùn ngụt chỉ chờ cơ hội bốc lên.
Trong chiến đấu, môn sinh có gương mặt giận dữ, đôi mắt nảy lửa như muốn thiêu
cháy đối phương, đòn tung ra nhanh mạnh nóng nảy muốn nhanh chóng kết thúc
giao đấu, mỗi đòn tung ra như lửa của một mũi hàn điện gây ra những vết thương
xuyên thấu nóng bỏng đau đớn cho đối thủ. Trước khi kết thúc mỗi cữ tập cũng là
một sự tọa thiền, nhưng thay vì tập trung thì là thư giãn, hồi phục. Dùng ý đưa

luồng hỏa khí đến những nơi bị dính đòn, bị thương đau để luồng hỏa khí xoa nắn
bên trong chỗ bị đau. Sau đó tưởng tượng toàn bộ cơ thể tinh thần minh giãn ra,
luồng hoả khí nguôi dần, lịm tắt, chìm dần vào từng thớ thịt để sẵn sàng bùng lên
lần nũa khi vận dụng
Mộc quyền
Địa điểm: trong rừng hay vườn cây hoặc nơi có cây cối cao bao quanh
Các giai đoạn:
Mở đầu môn sinh cũng tọa thiền tập trung tư tưởng. Màu của mộc là màu lục, môn
sinh nhắm mắt tưởng tượng như mình đang hấp thu cái thần của cỏ cây. Khi đã bi
xâm chiếm hoàn toàn bởi màu lục của thảo mộc, môn sinh tự nghĩ mình là một cây
cổ thụ vô cùng vững chắc, cứng rắn, tập trung ý lực vào ba điểm Đan điền, Đản
trung, Hà đạo thanh.
Khi ba điểm này đã nóng lên. môn sinh dùng ý hợp nhất Tinh- Khí- Thần đưa vào
các đường kinh như có một luồng nhựa cây màu xanh lá (diệp khí) luân lưu khắp
hai vòng Đại và Tiểu chu thiên. Sau khi khai thông các huyệt đạo bằng luồng diệp
khí môn sinh bắt đầu tập đòn thế bài quyền. Đặc tính của Mộc quyền là chân đứng
tấn ngắn, ít di chuyển hầu như đúng yên một chỗ giống như rễ một cái cây đã cắm
sâu xuống đất, thân trên và đôi tay xoay trở đủ hướng, vờn lên xuống , chống đỡ
và tấn công giống như những cành lá, cánh hoa vờn trước gió. Thầy, các bạn đồng
môn dùng cây tròn lăn trên tay, chân môn sinh. Sau đó đập nhẹ và mạnh dần lên
tay, chân, lưng, ngực, bụng giúp môn sinh luyện nội, ngoại đả công. Môn sinh
cũng tập đấm, đá, chặt, xỉa vào cây cứng để luyện sức công phá của tay chân.
Khi đã đạt trình độ cao, môn sinh vừa múa các bài mộc quyền vừa chịu đựng các
đòn đấm đá của các bạn đồng môn mà không được né tránh . Luyện thành công
mộc quyền sẽ có thân hình cứng rắn như gỗ mộc, một dáng dấp vững chắc trong
khi đôi tay vô cùng nhanh nhẹn với những cú xỉa cây, những ngón tay trảo có thể
bóc trần cả vỏ cây.
Môn sinh Mộc quyền thường là những người mềm mỏng, khéo léo nhưng có tinh
thần rất vững chãi. Họ thường đạt đến thành công bằng sự kiên trì bền bỉ. Trong
chiến đấu môn sinh trụ một chỗ vô hiệu hóa những đòn tấn công của đối phương

bằng đôi tay vờn linh hoạt làm hoa mắt đối phương để rồi bất thình lình tung một
đòn sấm sét có sức mạnh của một cành cây cong mềm dẻo bật ra đập vào đối thủ.
Cuối cữ tập cũng là một sự tọa thiền hồi phục thư giãn với sự xoa bóp nội tạng
bằng luồng “diệp khí” sau đó thả lỏng toàn thân như một thân cây cổ thụ đang say
ngủ trong một đêm trăng lặng gió.

Thủy quyền:
Địa điểm : nơi có nước như dưới thác, bờ biển, ven sông bờ hồ.
Các giai đoạn :
Mở đầu, môn sinh ngồi tọa thiền tập trung tư tưởng dưới một cái thác hay ngâm
mình dưới biển, sông, hồ (mực nước lên tới ngực). Dụng ý nghĩ rằng đang hấp thu
hoàn toàn “cái thần của thủy”. Dụng ý tập trung khí lực Đan điền, Đản trung, Hà
đạo thanh sau đó hợp nhất Tinh- Khí- Thần. Tưởng tượng khí trong người là một
làn sóng nước có màu xanh biển luân lưu khắp hai vòng Đại và Tiểu chu thiên
khai thông tất cả các huyệt đạo. Kế đó tập các đòn thế dưới nước để mượn sức ép
của nước làm gia tăng nội lực.
Cách mượn sức nước để luyện công được gọi là thủy công. Các đòn thế của thủy
quyền thường đa dạng, linh hoạt biến hóa lúc thì chậm rãi từ tốn, lúc lại nhanh
thần tốc, lúc hung bạo vây lấy đối thủ. Những đòn phóng ra xoay tròn, những đòn
quét được dùng sau những đòn nhử giống như là môn sinh đang đùa giỡn. Trong
bài quyền sự di chuyển dáng điệu cử chỉ của môn sinh phải làm cho đối thủ chưng
hửng, ngạc nhiên. Môn sinh hụp thấp người, xoay đủ hướng, lăn tròn dưới đất
nhảy lên không thậm chí chui qua háng đối phương.
Trong khi môn sinh múa quyền, một hay nhiều đồng môn quấy nhiễu và cùng lúc
tung đòn vào người môn sinh không được né tránh mà phải nhận lấy những đòn
này như một giòng nước thu hút lấy khí lực của đòn đánh, người tập phải nghĩ
mình là một khối nước cuộn chảy, có thể chia ra ở đây ở kia để rồi hợp tụ trở lại
để khi đến kỳ thủy triều dâng sẽ nhận chìm đối phương dưới một loạt đòn.
Môn sinh Thủy quyền thường bình tâm, thư thái, khéo xoay sở. Trong chiến đấu,
họ linh hoạt tung ra đòn thế liên tục biến hóa vây bọc nhận chìm đối thủ. Sự tọa

thiền hồi phục thư giãn được thực hiện với màu xanh. Môn sinh dùng ý dẫn luồng
“thủy khí” luân lưu để chà xát khắp bên trong cơ thể và những chỗ bị dính đòn
đau. Cuối cùng là sự thư giãn, buông thả hoàn toàn tĩnh lặng như mặt nước hồ thu
không gợn sóng.
Thổ quyền
Địa điểm : nơi cỏ đất nhưng trên một tấm phản hay những cái cọc (mai hoa
thung) cách mặt đất một thước rưỡi.
Các giai đoạn :
môn sinh cũng ngồi tọa
thiền tập trung tư tưởng hấp thụ “cái thần của đất”. Dùng ý tập trung khí lực ở Đan
điền, Đản trung, Hà đạo thanh. Hợp nhất Tinh- Khí- Thần. Dùng ý dẫn khí luân
lưu tưởng tượng như có một mạch đất ngầm chảy xuyên suốt hai vòng Đại và Tiểu
chu thiên. Kế đó tập luyện những đòn thế, bài quyền của Thổ quyển.
Đặc tính của Thổ quyển là chậm nhưng chắc, tư thế oai nghi sừng sững như một
trái núi, đòn thế tiếp nối nhau như một dãy đất sụp lò cuốn trôi, chôn vùi đối
phương. Môn sinh luyện nội, ngoại đả công bằng cách treo nhiều bao đất chung
quanh, múa quyền đấm đá vào các bao cát đất đồng thời chịu những cú đập của
các bao đất do lực phản hồi của các dây treo.
Môn sinh Thổ quyển là người trầm lặng, kín đáo, trong chiến đấu thường điểm
tĩnh, tự tin, chậm chạp nhưng chắc chắn, khéo léo tránh né chống đỡ những đòn
tấn công để rồi như đất sụp lở dưới chân chôn vùi đối thủ bằng một chuỗi đòn liên
hoàn tới tấp . Sự tọa thiền hồi phục được thực hiện với màu nâu và luồng thổ khí.
Kim quyền
Đia điểm : Trên đất, đá sỏi
Các giai đoạn:
Môn sinh ngồi tọa thiền tập trung tư tưởng để
thu hút cái thần của kim loại “từ những cái mỏ nằm sâu dưới lòng đất”. Dùng ý tập
trung khí lực, hợp nhứt Tinh- Khí- Thần. Dùng ý để khí luân lưu tưởng tượng như
có một dòng phân tử kim loại chảy suốt hai vòng Đại và Tiểu chu thiên. Kế dó tập
những đòn thế và bài quyền. Đặc tính của Kim quyền là nhanh, mạnh, dứt khoát,

tàn bạo. Thầy và các bạn đồng môn dùng những thanh sầt tròn lăn trên, chân, sau
dó đánh nhẹ và mạnh dần lên tay, chân, lưng, ngực, bụng trong khi môn sinh vận
công gồng cứng cơ thể.
Môn sinh cũng luyện Thiết hỏa sa chưởng như nói ở phần trên. Luyện thành công
Kim quyền sẽ có một thân thể cứng như sắt thép. Những đòn tấn công đánh vào
người môn sinh Kim quyền sẽ bị dội ngược về với một sức mạnh khủng khiếp.
Nhưng do bản chất của kim loại là lạnh lùng, cứng rắn nên môn sinh cũng có thể
bị ảnh hưởng trở nên vô tình, độc ác. Vì vậy, các võ sư rất hạn chế truyền dạy Kim
quyền và cũng ít có môn sinh nào muốn trở thành một “kim nhân” thật sự. Môn
sinh kim quyền thường cô độc chìm đắm trong những ý nghĩ của chính mình.
Trong chiến dấu, môn sinh kim quyển đỡ và đánh không suy nghĩ, không nhìn
những đối thủ, tự xem mình là một cỗ máy đánh nhau tiến lên không ngừng và
nghiền nát đối phương. Sự tọa thiền thư giãn cuối cữ tập được thực hiện với màu
vàng trong tâm tưởng, môn sinh thực hiện sự chà xát bên trong và xoa dịu những
chỗ đau bằng luồng “kim khí” sau đó là sự buông thả hoàn toàn, mềm nhũn toàn
thân để loại bỏ những tác hại xấu còn sót lại trong thân thể và tâm hồn của lối tập
luyện sắt thép vô tri. Môn sinh trở lại là một con người với tất cả tâm hồn, tình
cảm yêu, thương, giận, ghét….


×