Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bước đầu khảo sát ngôn ngữ giới tính của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo trong mối
tương quan địa lý giữa thành thị - nông thôn
LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề ngôn ngữ trẻ em được đề cập đến từ năm 1913 nhưng phải đến tận
đầu những năm 70 nó mới thực sự thu hút được sự chú ý của các nhà khoa học.
Các công trình về giới ngữ tập trung và ợ khác nhau giữa ngôn ngữ trẻ em nam
và nữ ở hai góc độ sinh học và xã hội, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, từng vùng
địa lý mà sự khác biệt này nhiều hay ít.
Ở Việt Nam vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ trẻ em tương đối mới so với thế
giới. Trong bài “Sự bộc lộ giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ” PGS.TS Nguyễn
Văn Khang đã nhận xét “Ngôn ngữ ở các cháu trai và cháu gái hầu như giống
nhau. Giới tính được thể hiện trong ngôn ngữ của các cháu thiên về nữ”. Đây
được coi là công trình nghiên cứu đầu tiên trực tiếp bàn đến vấn đề này.
Hiện nay nền kinh tế xã hội Việt Nam phát triển vượt xa những năm 70-
80. Vậy ngôn ngữ giới tính của trẻ mẫu giáo có gì thay đổi? Giữa thành thị và
nông thôn có sự khác biệt không? Bài tiểu luận này bước đầu khảo sát ngôn ngữ
của trẻ trong hoạt động giao tiếp ở gia đình, nhà trường và một số nơi khác tại
địa bàn Hà Nội, các vùng nông thôn Hải Dương và Hà Tây.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN NỘI DUNG
I. NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Ngôn ngữ học xã hội là gì?
Ngôn ngữ học xã hội là một bộ môn khoa học ra đời phát triển mạnh ngay
từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Từ đó đến nay nó thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà ngôn ngữ họ, đồng thời khẳng định vị trí của nó trong ngành ngôn
ngữ.
Hai nhà ngôn ngữ học người Mỹ J.B. Bride và Janet. Holmes đã nhận xét:
“vị trí của ngôn ngữ học xã hội rất quan trọng và rất phức tạp”. Điều này làm
cho ngôn ngữ học xã hội trở thành mảnh đất nghiên cứu của các chuyên gia
thuộc nhiều ngành khoa học.
Tuy nhiên xung quanh vấn đề ngôn ngữ học xã hội là gì? có rất nhiều ý
kiến tranh luận nhưng nhìn chung thống nhất theo 2 cách hiểu:
+ Hiểu theo nghĩa hẹp: Ngôn ngữ học xã hội là một bộ môn khoa học
nghiên cứu mối quan hệ về sự biến đổi ngôn ngữ trong cách sử dụng với các bối
cảnh cụ thể (bối cảnh này rộng hay hẹp còn tuỳ thuộc vào việc chọn đối tượng
nghiên cứu của các nhà khoa học).
+ Hiểu theo nghĩa rộng: ngôn ngữ học xã hội là một môn khoa học xuất
phát từ góc độ xã hội (như nhân chủng học, xã hội học, dân tộc học, địa lý, lịch
sử…) để khảo sát ngôn ngữ.
Như vậy tuỳ theo mục đích nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội của từng cá
nhân từng nhóm xã hội… mà người ta có thể hiểu theo nghĩa rộng hoặc nghĩa
hẹp.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội
Như đã nói ở trên, khái niệm ngôn ngữ học xã hội có hai các hiểu khác
nhau nên song song với nó là các nhà khoa học nghiên cứu theo 2 hướng:
+ Ngôn ngữ học xã hội của xã hội (Sociolinguistics of society) - Ngôn
ngữ học xã hội vĩ mô.
+ Ngôn ngữ học xã hội của ngôn ngữ (Sociolinguistics of language) -
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ngôn ngữ học xã hội vi mô.
Ngôn ngữ học xã hội vĩ mô nghiên cứu các vấn đề và tình hình sử dụng
ngôn ngữ ở một quốc gia hay cả một khu vực, nghiên cứu mối quan hệ và tác
dụng tương hỗ giữa ngôn ngữ với sự phát triển của xã hội như ngôn ngữ và dân
tộc, chính sách ngôn ngữ, quy hoạch ngôn ngữ, kế hoạch hoá ngôn ngữ.
Ngôn ngữ học xã hội vi mô nghiên cứu ngôn ngữ trong giao tiếp, xem xét
các mối quan hệ và tác dụng giữa đặc trưng xã hội, tâm lý của người nói với lời
nói (tức là các biến thể xã hội của ngôn ngữ).
“Ngôn ngữ là tấm gương phản chiếu xã hội” tức là xã hội như thế nào thì
nó cũng như vậy. Tất cả các vấn đề, dù là nhỏ nhất diễn ra ngay trong đời sống
giao tiếp bình thường của con người hay những hiện tượng ngôn ngữ mang tính
quốc tế đều có thể là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội.
Theo M.A.K Halliday thì ngôn ngữ học xã hội cần phải tập trung nghiên
cứu một số lĩnh vực sau:
(1) Ngôn ngữ học vĩ mô, thống kê học dân số ngôn ngữ.
(2) Hiện tượng song thể ngữ, đa ngữ, đa phương ngữ
(3) Quy hoạch ngôn ngữ, phát triển ngôn ngữ và kế hoạch hoá ngôn ngữ
(4) Hiện tượng pha trộn, lai tạp ngôn ngữ (Pidgín và Geolé).
(5) Phương ngữ học xã hội, miêu tả các biến thể phi chuẩn.
(6) Ngôn ngữ học xã hội với vấn đề dạy học.
(7) Lịch sử nhân chủng của ngôn ngữ, cảnh huống ngôn ngữ
(8) Năng lực ngôn ngữ, năng lực giao tiếp.
(9) Nhân tố xã hội của sự biến đổi ngữ âm và ngữ pháp.
(10) Xã hội hoá ngôn ngữ, ngôn ngữ và truyền thống văn hoá.
(11) Phương pháp của ngôn ngữ học xã hội và sự phát triển của ngôn
ngữ trẻ em.
(12) Lý luận chức năng về hệ thống của ngôn ngữ.
(13) Tính tương đối của ngôn ngữ
(14) Ngôn ngữ học của phương pháp luận nhân chủng
(15) Lí luận về hội thoại.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3. Vấn đề ngôn ngữ giới tính trong phương ngữ xã hội
Ngôn ngữ dùng để giao tiếp giữa các nhóm xã hội được gọi là
phương ngữ xã hội. Chừng nào xã hội còn tồn tại các nhóm xã hội thì
chừng ấy còn tồn tại phương ngữ xã hội. Trong xã hội luôn có sự khác
nhau về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hoá, nghề nghiệp… nó đã tạo ra
hàng loạt các phương ngữ của các nhóm xã hội khác nhau như;
. Phương ngữ giới tính.
. Phương ngữ tuổi tác
. Phương ngữ nghề nghiệp
. Phương ngữ tôn giáo
. Phương ngữ giai tầng.
Trong đó giới tính cũng là một thuộc tính của xã hội. Sự hình thành ngôn
ngữ là do sự giáo dục của gia đình và xã hội cho trẻ từ nhỏ cho tới khi trưởng
thành, đặc biệt ở độ tuổi 1- 6. Vì vậy chúng tôi khẳng định rằng ở độ tuổi 3 - 5
của trẻ đã bước đầu hình thành ngôn ngữ giới tính. Các công trình trước đây cho
rằng ngôn ngữ giữa bé trai và bé gái là hầu như giống nhau và thiên về giới nữ.
Tuy nhiên do điều kiện từ những năm 70-80 hay đầu những năm 90 nền kinh tế
của Việt Nam còn khó khăn, các gia đình thường chưa đủ điều kiện dạy bảo con
cái, đặc biệt những gia đình đông con thường nhường chức năng dạy dỗ con cái
cho ông bà hay các anh, chị của trẻ trong gia đình. Vì vậy ngôn ngữ trẻ thường
không bộc lộ rõ về giới, ngôn ngữ của các cháu thường giống nhau. Nhưng đến
nay kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển nhảy vọt, các gia đình đã có
điều kiện chăm sóc con cái về vật chất cũng như tinh thần. Sự quan tâm của bố
mẹ trong giai đoạn này của trẻ được coi là quan trọng nhất làm cho trẻ phát triển
tư duy ngôn ngữ, cách nhận thức và giải quyết vấn đề cũng có sự khác biệt
tương đối so với tư duy của trẻ giai đoạn cách đây vài chục năm về trước.
II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cách phân loại để nghiên cứu
Trong một xã hội cụ thể, ngôn ngữ với tư cách là “phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất giữa người với người (Lênin) bao giờ cũng thống nhất. Ngôn
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngữ không có tính giai cấp và phục vụ mọi người như nhau, nghĩa là nó có tính
toàn dân. Tuy nhiên mỗi giai cấp lại sử dụng nó theo phong cách khác nhau.
Ở Việt Nam, giai cấp đã bị xoá bỏ từ khi nước nhà giành độc lập, nhưng
tất yếu của nền kinh tế thị trường sẽ hình thành nên các giai tầng xã hội, có
người giàu, người nghèo, nông dân, trí thức… có sự khác biệt về mặt kinh tế
cũng như trình độ văn hoá của nông thôn và thành thị. Chính vì vậy, ngôn ngữ
cũng có những hươứng phát triển khác nhau. Trẻ em sinh ra ở môi trường xã hội
nào thì nó sẽ chịu ảnh hưởng yếu tố ngôn ngữ của môi trường đó.
Để dễ dàng cho công việc nghiên cứu chúng tôi tiến hành phân loại như
sau:.
Thứ nhất: theo địa lý - xã hội gồm:
Nhóm trẻ sinh sống ở thành thị (thành phố Hà Nội)
Nhóm trẻ sinh sông ở nông thôn (Hải Dương-Hà Tây)
Thứ hai: Theo giới tinh:
Nam
Nữ
2. Tổ chức thực hiện
Chúng tôi gồm 2 người cùng với một số cộng tác viên đi tới các vùng Hà
Nội, Hải Dương và Hà Tây thu thập cứ liệu. Trong đề tài này chúng tôi chủ yếu
sử dụng các phương pháp: quan sát trực tiếp, tham gia hoạt động giao tiếp với
trẻ. Từ đó miêu tả, thống kê, phân loại và xử lý tư liệu sau đó tiến hành so sánh.
3. Các cứ liệu thu thập
3.1. Trẻ ở thành thị
*Hội thoại: Hai cháu 4 tuổi (giới tính: nam) nói chuyện với nhau trước khi
tan trường.
A: ông này, đưa tôi
B: ông để tôi cầm, mai tôi trả
(Bố của đứa trẻ A đến đón).
A: A! bố sữa cô gái của con đâu.
*Hội thoại: Một bé gái 5 tuổi chào tạm biệt búp bê trước khi ra về
Website: Email : Tel : 0918.775.368
“Con ngoan! Ngủ đi! “mẹ” thương! đừng khóc nhé! Ngủ ngoan nào! Mai
“mẹ” lại kể chuyện cho con nghe nhé! Bây giờ “mẹ” phải về với mẹ. Mà sao mẹ
lâu đến thế nhỉ? ế “mẹ” nhớ, mai con thích ăn gì nào “mẹ nấu” cho con ăn. Thôi
mẹ đến rôi “mẹ” về đây”.
*Hội thoại: Một bé trai 4 tuổi (tâp làm siêu nhân) với 1 bé trai 5 tuổi. Bé
trai 4 tuổi: “Hự! Hự! Hự! Hự! Bay lên này! chiu!” Bi học ở phim siêu nhân Bố
mở. Mai Bi thành siêu nhân, Bi bay lên trời!”.
Bé trai 5 tuổi: Siêu nhân bay lên trời cách gì? Ta là siêu nhân vũ trụ, siêu
nhân tàng hình đây. ta còn là Heditốttơ.
*Hội thoại:
Hai chị em ruột nói với nhau: (chị 13 tuổi - em 5 tuổi).
C: mày đi đâu bây giờ về? Mày đi đâu bây giờ mới về?
E: Em đi đá bóng với cậu.
C: Điều cậu lại cho mày đi công viên nước chứ gì
E: Sao chị biết.
C: Tao còn lạ gì?
*Một bé 3 tuổi (nói với mẹ khi mẹ đón về).
- Ứ! Mẹ xấu con ứ chơi với mẹ hu hu! Mua cho con cặp lợn hồng như
Mai Phương.
- Thôi về mau mẹ còn phải trông hàng con có cặp đỏ đẹp thế này rồi mà!
- Ứ! Con ứ cần, mẹ mua lợn hồng cơ! ư ừ! Hu hu!.
*Một bé 4 tuổi (theo mẹ ra chợ).
- Mẹ làm cá rán cơ không ăn thịt đâu !
- Mẹ làm thịt băm con thích nhé!
- Không! Không ăn thịt băm đâu ăn cá cơ!
- Cá hôm nay không có trứng đâu con ạ!
- Không! Con ăn cá cơ!
- Mẹ đã bảo là cá không có trứng mà! con không ăn thịt băm là con chuột
chí tối nó căn chân đấy!
- Ứ! Mẹ ơi! Tối mẹ đóng cửa chặt lại chuột chí không vào nhà đâu! Mẹ
Website: Email : Tel : 0918.775.368
làm thịt băm như tối qua nhé!.
- Ừ!
*4 tuổi; (tại cửa hàng tạp hoá)
M: Mày uống sữa gì?
C: Sữa có dán hình.
M: không uống, mày uống sữa đấy tao quật chết tao không có tiền, mày
có uống sữa CGH2 không thì thôi biến!
C: Không con thích dán hình cơ
M: Sữa này có bán 1 hộp không em!
CCH: Không muống có dán hình thì phải mua cả lốc.
M: Mày thấy chưa phải mua cả lốc người ta mới cho cái dán hình mày về
bảo bố mày đưa tiền cho) tao không có tiền.
M: Con này nó ngu lắm cơ, mình mà mua cho nó cả lốc là đến lớp thế nào
nó cũng chia cho các bạn.
Mẹ con: Tao mua sữa về thì mày phải uống, đừng có dán hình lăng nhăng
ở nhà tao quật chết. Thôi đi về.
*Hội thoại:
Con: Mẹ ơi, hôm nay con được cô thưởng tận 3 phiếu bé ngoan.
Mẹ: Thế à cô có khen con không?
Con: có cô khen con nặn con chó giống nhất, vẽ tranh nhanh nhất.
Mẹ: con của mẹ giỏi nhỉ, con muốn mẹ thưởng gì nào?
Con: Mẹ mua cho con bó xếp hình mẹ nhé.
Me: ừ! Thế mai mẹ.
*Hội thoại: Hai đứa trẻ 4 tuổi chơi đồ hàng:
Bé trai: Chị ơi, bán cho em 1 con gấu.
Gái: Em mua gấu hồng hay gấu trắng.
Trai: Em mua màu trắng.
Gái: Đưa tôi mười nmghìn
Trai: Đấy!
*Hội thoại: (gọi điện cho bà nội chế ộ mở loa ngoài)
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phi(3): Bà nội ơi cháu phi đây!
Bà: Phi à!
Bố: Chào bà đi con
Phi: Cháu chào bà!
Bà: ừ bà chào cháo
Bố: Bà ăn cơm chưa?
P: Bà ăn cơm chưa ạ
Bà: Cháu nhớ bà không
Bà: Cháu nhớ bà lắm
Bố: Hôm nào cháu về thăm bà
P: Hôm nào bố cháu cho cháu về thăm bà.
B: Chào bà đi con.
P: Bye bà ạ.
*Hội thoại: Mẹ và con trai nói chuyện với nhau
C: Mẹ ơi sao người ta lại gọi là chợ vỡ
M: Người ta gọi là chợ vỡ chứ sao.
C: Nhưng sao lại gọi là chợ vỡ.
M: Tao không biết mày hỏi cô giáo của máy ý, thằng toàn hỏi lăng nhăng.
3.2. Trẻ ở nông thôn
*Phương (4t) nói chuyện với chị gái họ.
CG: Phương, mẹ có nhà không?
P: Mẹ lên vườn vải rồi!
CG: Thế mẹ đi chợ chưa?
P: Mẹ có 2 đồng, một đồng mua gạo một đồng mua rau chẳng còn đồng
nào mua bim bim cho con
CG: ừ! Thế Phương ngoan hôm nào mẹ có tiền sẽ mua bim bim cho P
nhé.
P: Vâng ạ!
CG: Chị về đây.
* Sơn (4t) nói chuyện với Lợi (5 tuổi) ở sân nhà: