Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Côn nhị khúc ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.81 KB, 8 trang )

Côn nhị khúc

Côn nhị khúc

Côn nhị khúc, côn hai khúc hay lưỡng tiết côn, song tiết côn (âm romanji tiếng
Nhật là nunchaku) là một dạng đoản côn có hai khúc được nối với nhau bởi một
đoạn dây mềm. Sử dụng thịnh hành trong võ phái Karatedo Nhật Bản và hiện nay,
do tính chất tiện lợi của nó, côn nhị khúc đã được nhiều môn sinh của các võ phái
khác nhau ưa chuộng trong luyện tập và tự vệ.
Mục lục
[ẩn]
 1 Lịch sử
 2 Côn nhị khúc tại Việt Nam
 3 Cấu tạo
 4 Tập luyện
 5 Phân loại kỹ thuật côn nhị khúc
 6 Một số nguyên tắc khi sử dụng côn nhị khúc

 7 Chú thích
 8 Liên kết ngoài
[sửa] Lịch sử
Trong các võ phái cổ truyền Trung Hoa, chắc chắn côn nhị khúc cũng có nhưng
không thịnh hành, thường các môn đồ tập côn tam khúc hoặc tiên (roi) với nhiều
đốt nối với nhau (thất tiết tiên hoặc cửu tiết tiên). Có thể tìm thấy trong các vũ khí
cổ của Trung Hoa một dạng thức gần tương tự côn nhị khúc nhưng bao gồm một
khúc dài và một khúc ngắn hơn, hoặc một khúc dài với hai khúc ngắn nối với nhau
bằng dây mềm, khi luyện tập thường tập một chiếc hoặc tập cả hai chiếc. Cây côn
này còn được gọi tên là song hổ vĩ côn (côn đuôi hổ).
Tương truyền tại vùng Okinawa khi tiểu vương quốc này bị người Nhật đô hộ, sự
cai trị tàn khốc với sưu cao thuế nặng của người Nhật khiến dân bản địa liên tục
nổi dậy phản kháng. Các võ quan Nhật tại các làng mạc đã nghiêm cấm không cho


dân chúng được sử dụng dụng cụ bằng sắt trong sản xuất sinh hoạt, chỉ trừ một
con dao sắt được sử dụng hạn chế với sự kiểm soát của kẻ cai trị, loại bỏ tất cả
những gì có thể trở thành vũ khí sát thương nhằm thủ tiêu ý chí đấu tranh của
người dân bản địa. Việc tập luyện dưới hầm những chiêu thức tự vệ đã định hình
những kỹ thuật chiến đấu Karatedo đầu tiên, và các dụng cụ sản xuất bằng gỗ, tre,
trúc đã được người dân ở đây chế tạo thành các vũ khí để hợp pháp hóa sử dụng
khi mang trong người vượt thoát khỏi mọi sự kiểm duyệt: trường côn (bo) vốn
xuất xứ từ một cây sào; song quải (tonfa) một dạng dùi cui có cán chĩa ngang hình
chữ L; chĩa ba (sai) để xóc rơm rạ; tiểu đoản côn là khúc côn gỗ ngắn như cây bút
có thể để gọn trong lòng bàn tay; liềm (kama) ban đầu là dụng cụ cắt lúa, và côn
nhị khúc (nunchaku) xuất xứ từ hai thanh tre hay gỗ buộc dây ở đầu dùng cuộn bó
lúa khi đập lúa.
Trong các võ phái cổ truyền Việt Nam, có một dụng cụ cũng xuất xứ từ chiếc kẹp
lúa và cấu tạo giống hệt nunchaku, tuy vẫn thường thấy có hai thành một dài một
ngắn được gọi là thanh mẹ thanh con. Vũ khí này được gọi tên là thiết lĩnh với lối
đánh rất gọn, có nguồn gốc từ xa xưa và hiện nay nhiều võ phái xuất phát từ Bình
Định vẫn sử dụng.
Điều cần nói thêm ở đây rằng, dù rất có thể chiếc côn nhị khúc đầu tiên không là
bản quyền của vùng Okinawa Nhật Bản, nhưng chính tính phổ biến của nó sau này
theo sự bành trướng của môn phái Karatedo khắp thế giới, đã khiến cả thế giới chỉ
biết đến một tên gọi thuần Nhật - nunchaku của vũ khí này, và côn nhị khúc
nghiễm nhiên được thừa nhận nguyên ủy từ quần đảo Okinawa. Sự phổ biến hình
ảnh của Lý Tiểu Long với côn nhị khúc trong tay, mà vũ khí này được họ Lý ưa
chuộng và tập luyện nhờ sự chỉ dẫn của một đồng môn Triệt quyền đạo vốn xuất
thân ban đầu từ Karate, cũng phần nào khuyếch trương và phổ dụng hóa loại vũ
khí này.
[sửa] Côn nhị khúc tại Việt Nam
Vào khoảng tháng 8 năm 1985, môn sinh Lê Lý Thuận ở thành phố Hồ Chí Minh
đã nghiên cứu, sáng tạo và hệ thống hóa các kỹ thuật côn nhị khúc thành chương
trình đào tạo hoàn chỉnh, theo 3 bậc chuyên môn: sơ cấp [1], trung cấp [2] & nâng

cao. Trong những cố gắng hoàn thiện trên, nổi bật nhất là sự sáng tạo 04 kỹ thuật
lăn cơ bản đã góp phần đưa côn nhị khúc từ một binh khí thông thường trở thành
một môn thể thao nghệ thuật.
Ngày 20 tháng 5 năm 2005, Bộ môn Côn nhị khúc của Trung tâm đào tạo Huấn
luyện viên võ thuật Việt Nam, gọi tắt là Trung tâm MIC
[1]
đã thông qua “Luật thi
đấu côn nhị khúc” do thầy Lê Rích Tô - giáo viên côn nhị khúc của Trung tâm
MIC nghiên cứu xây dựng. Điểm lưu ý của luật này là đã thể thao hóa côn nhị
khúc với cả hai dạng thức thi đấu quyền thuật côn nhị khúc và đối kháng côn
nhị khúc. Theo luật này, quyền thuật côn nhị khúc là loại hình thi đấu hoàn toàn
sáng tạo - riêng biệt của mỗi thí sinh, không có các bài quyền mẫu như hệ thống
thi đấu của các môn võ thuật khác.
[sửa] Cấu tạo
Côn nhị khúc sơ khai là hai thanh tre, gỗ có tiết diện hình tròn hoặc hình chữ nhật,
dài bằng nhau và nối với nhau bằng một đoạn dây chắc chắn. Từ dụng cụ sơ khai
ban đầu, côn nhị khúc ngày nay có kiểu dáng rất đa dạng với rất nhiều biến thể của
hình dạng hai thanh côn: hình tròn, hình nửa tròn, hình lục giác, hình bát giác,
hình vuông, hình chữ nhật nhưng thịnh hành nhất là thân côn được tạo các cạnh
hình lục giác hoặc bát giác để gia tăng đặc tính sát thương cho vũ khí nhưng vẫn
thuận tiện khi sử dụng, không quá sắc cạnh nhưng cũng không quá trơn nhẵn. Hai
khúc này thường được làm với chu vi phần đuôi côn (nơi nối dây), nhỏ hơn một
chút so với phần đầu côn (nơi cầm trong tay người tập) để khi sử dụng thuận tiện
hơn do lực ly tâm không khiến đôi côn tuột văng ra khỏi tay người tập trong
những chiêu thức loan côn, múa côn. Chiều dài của mỗi đoạn côn, tùy theo sở
thích cá nhân và cấu tạo cơ thể người sử dụng, nhưng thường tối ưu là bằng độ dài
cẳng tay người sử dụng tính từ cùi chỏ đến giữa lòng bàn tay (khoảng 25-35 cm).
Đường kính thân côn phần đầu (to nhất) khoảng 2,5 đến 3,5 cm; phần đuôi nơi nối
dây khoảng 2 đến 3cm.
Chất liệu làm hai thanh côn cũng đa dạng hơn, kim loại (để không bị quá nặng

thường làm bằng hai ống kim loại), tre, gỗ, nhưng thịnh hành nhất là côn làm bằng
gỗ cứng. Đoạn dây nối hai thanh côn có thể làm bằng dây dù chắc hoặc làm bằng
xích sắt mềm bằng cách đục lỗ thẳng xuyên tâm trên bề mặt của đuôi côn, luồn
dây xuống cố định vào một hoặc hai lỗ xuyên ngang thân phía đầu côn. Theo kinh
nghiệm của nhiều người đã từng sử dụng côn nhị khúc, việc luồn dây xuống qua
hai lỗ khiến trọng tâm của côn vững vàng hơn và kiểm soát côn dễ hơn là chỉ luồn
dây xuống một lỗ xuyên ngang. Khi kéo hai thanh côn thẳng ra, chiều dài đoạn
dây còn lại sau khi đã nối côn tối ưu là bằng 1/2 cho đến dài nhất là bằng chu vi
của cổ tay người tập. Dây quá ngắn thì đôi côn không linh động, dây quá dài thì
tuy lực đánh mạnh hơn, linh hoạt hơn nhưng việc kiểm soát côn rất khó khăn.
[sửa] Tập luyện

Biểu diễn côn nhị khúc
Người sử dụng thường cầm sát tay vào thân côn phía đầu, hoặc cách đầu côn
khoảng 1-2cm, đôi khi có thể cầm vào giữa thân côn. Các động tác tập luyện
phong phú giúp cho người tập làm chủ đôi côn thành thạo. Do khi cầm một thanh
côn và tấn công bằng thanh còn lại, sau khi chạm mục tiêu nhận phản lực thanh
côn sẽ bật mạnh về sau, nên để không bị "phản tác dụng" khi sử dụng côn nhị khúc
đòi hỏi phải khổ luyện. Khổ luyện là một vấn đề, nhưng mà luyện tập cho thân thể
mình phản ứng nhanh nhạy, người và côn phải hoà hợp như một. Phải cảm nhận
được sự chuyển động của không khí khi côn đánh vào mục tiêu.
Lực đánh của côn nhị khúc rất mạnh ở phía đầu côn do được hỗ trợ bởi lực ly tâm
và phản lực trong nhiều đòn thế mà người sử dụng cầm một thanh côn và đánh
văng thanh còn lại vào các mục tiêu hiểm trên người đối phương như đầu, mặt,
gáy, tay, chân. Tuy nhiên, ngoài những dạng thức dùng côn nhị khúc được tập
luyện và sử dụng trong thực chiến rất đa dạng: có thể một tay cầm vào phía đầu
một thanh côn, một tay cầm phía đuôi thanh còn lại, giữ thẳng 2 thân côn và tấn
công bằng đầu thanh côn phía trên vào các yếu điểm như huyệt đạo, hoặc đỡ, gạt,
đập; có thể cầm chập cả hai thanh côn và đánh, đâm, đỡ gạt; có thể hai tay cầm hai
thanh côn và dùng đoạn dây ở giữa để xiết cổ, khóa tay, chặn chân đối phương v.v.

Tuy nhiên, dù bằng bất cứ hình thức nào, để sử dụng thành thạo côn nhị khúc rất
cần khổ luyện bằng các kỹ thuật loan (quay) côn, thu côn, và tập đánh côn trực
tiếp lên các dụng cụ cứng như trụ cây, bao cát.
[sửa] Phân loại kỹ thuật côn nhị khúc
Kỹ thuật sử dụng Côn nhị khúc được phân chia thành các nhóm nhỏ như sau:
1. Kỹ thuật quay (loan): số 8, vòng tròn, anpha
2. Kỹ thuật quật: xéo, dọc, ngang.
3. Kỹ thuật chuyền: có 8 động tác cơ bản & 32 biến thể: chuyền trước, sau,
đổi tay, qua hông, qua cổ.
4. Kỹ thuật lăn: có 4 động tác lăn cơ bản & vô số các bài tập phối hợp khác
(Đây là nhóm kỹ thuật có xuất xứ đầu tiên tại Việt Nam).
5. Nhóm các tư thế thủ, cận chiến (bật, ném, ) & kỹ thuật sử dụng 2, 3 côn
nhị khúc cùng lúc hoặc luân phiên.
Ngoài ra, trong các bài tập phối hợp & nâng cao còn có nhóm các kỹ thuật lia côn
nhị khúc, tung côn nhị khúc lên không trung, kỹ thuật điều khiển côn nhị khúc
bằng cổ tay, lăn hoặc chuyển hướng côn nhị khúc trên các ngón tay.
Sau giai đoạn tập luyện cơ bản (bậc sơ cấp), người yêu thích côn nhị khúc sẽ tiếp
tục học lên cao. Khác hẳn với các môn võ thuật hoặc binh khí khác, việc giảng dạy
nâng cao này không tập trung vào việc huấn luyện các đòn thế mà chủ yếu tập
trung vào việc hướng dẫn cho môn sinh các CÔNG THỨC sáng tạo đòn thế mới.
Từ 1 vài đòn tiêu biểu, sau khi thấm nhuần CÔNG THỨC ấy, môn sinh có thể
khai sáng & phối hợp ra vô số các đòn thế khác, mới lạ hơn, đẹp mắt hơn (Hiện
nay, tại Bộ môn côn nhị khúc của Trung tâm Đào tạo HLV Võ thuật Việt Nam, &
từ năm 1985 đến nay, trong hơn 2.000 người đã tập luyện, chưa có 1 môn sinh
nào khẳng định "Đã tập luyện được tất cả các kỹ thuật côn nhị khúc theo phân
loại như trên!". Điều đó cho thấy, kỹ thuật sử dụng côn nhị khúc tại Việt Nam
ngày nay đã phát triển thiên biến vạn hóa, cả về số lượng & độ khó của các đòn
thế.
[sửa] Một số nguyên tắc khi sử dụng côn nhị khúc
1. Nguyên tắc Nhất thể: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất khi sử dụng côn

nhị khúc. Theo đó, côn và người sử dụng nó phải hòa nhập thành 1. Côn
nhị khúc là sự (phương tiện) nối dài của cánh tay. Sự hợp nhất này giúp
tăng cường khả năng kiểm soát và điều khiển côn theo ý muốn của người
sử dụng.
2. Nguyên tắc âm dương: côn nhị khúc là 1 binh khí thể hiện cả sự vận hành
của nguyên tắc (triết lý, tư tưởng) âm dương khi sử dụng. Điều quan trọng
là người sử dụng tìm ra sự giao hòa âm dương (thả lỏng & trương cơ) trong
tất cả các chiêu thức mà mình đã tập luyện. (Nếu chưa phát hiện được điều
này sẽ làm người tập rất mau mệt mỏi - vì phải trương cơ liên tục).
3. Nguyên tắc cương quyết & dứt khoát: Trong mọi kỹ thuật của côn nhị
khúc đều yêu cầu người sử dụng chúng phải thực hiện động tác ấy thật
cương quyết và dứt khoát. Điều này làm tăng tính mạnh mẽ trong kỹ thuật
& thần khí khi thực hiện các bài tập luyện về côn nhị khúc.
4. Nguyên tắc Đẳng thế: Như trên đã nói, côn nhị khúc là sự nối dài của cánh
tay, do đó, việc sử dụng đôi tay thuần thục không có nghĩa là trọng tâm cơ
thể (vùng rốn) phải trồi sụt, lắc lư. Tương tự như bộ môn khiêu vũ, hông &
vai người sử dụng côn nhị khúc phải thẳng, không được uốn éo, nhấp nhô.
Vi phạm nguyên tắc này, bên cạnh việc vi phạm nguyên tắc "nhất thể", nó
còn làm cho người xem có cảm giác mệt mỏi, làm mất tính thẩm mỹ và
nghệ thuật của côn nhị khúc.
Ngoài ra, người sử dụng côn nhị khúc còn phải lưu ý đến một số nguyên tắc của
vật lý học như lực ly tâm (cánh tay đòn), phản lực; điểm tập trung lực, sự hợp lực,
sự triệt tiêu lực và tính liên hoàn, nguyên tắc khống chế côn nhị khúc, phương
pháp xử lý khi va chạm côn nhị khúc trong tập luyện và thi đấu.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×