Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Dị tật bẩm sinh đường tiêu hóa ở trẻ sơ sinh pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.53 KB, 10 trang )

Dị tật bẩm sinh đường tiêu hóa ở trẻ sơ sinh
Ở trẻ sơ sinh người ta thường gặp những dị tật bẩm sinh
đường tiêu hóa như hẹp thực quản, hẹp phì đại môn vị, tắt
tá tràng… Chúng cần phẫu thuật cấp cứu ngay sau trẻ chào
đời đề giúp trẻ sớm có được một hệ tiêu hóa hoàn chỉnh.
Nếu không phát hiện sớm, tính mạng và sức khỏe của trẻ sẽ
bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Ở trẻ sơ sinh người ta thường gặp những dị tật bẩm sinh
đường tiêu hóa (google image)
Hẹp thực quản

Hẹp thực quản là dị tật đường tiêu hóa thường gặp (tỉ lệ
mắc bệnh khoảng 1/200-1/4000 trẻ). Thể hiện của bệnh là
thực quản bị đóng kín khoảng 10cm tính từ miệng. 80%
trường hợp dị tật này có kèm lỗ thông giữa khí quản và
thực quản hoặc có kèm theo các dị dạng khác về tim mạch,
ruột, phổi, hệ tiết niệu sinh dục. Có thể phát hiện bệnh qua
siêu âm ngay khi trẻ còn trong bụng mẹ.

Sau khi sinh, trẻ thường có các biểu hiện:

- Trào nước ối. Không thể nuốt bất cứ thứ gì. Khi cố gắng
cho bú, trẻ bị sặc, nôn ói, tím tái.

- Rối loạn hô hấp, tiết nước bọt nhiều, liên tục phải thở kém
ở tư thế ngửa, tắt đường thở.

- Bụng chướng hoặc xẹp lép (bụng chướng nếu có kèm lỗ
dò khí quản và thực quản, bụng lép nếu chỉ teo thực quản).


- Trong vòng nhiều giờ, trẻ sơ sinh có thể viêm phổi thứ
phát trầm trọng do hít dịch vị qua lỗ dò. Lúc này trẻ sẽ thở
nhanh, tái, da hơi xanh, khóc yếu và tình trạng xấu đi nhanh
chóng.

Chăm sóc và can thiệp y khoa:

- Tuyệt đối không cho trẻ ăn uống qua đường miệng.

- Trẻ cần được hút nước bọt liên tục, khoảng mỗi 15 phút
mỗi lần, để ngăn chúng bị hít vào qua lỗ dò.

- Bác sĩ thường sẽ chỉ định cho dùng kháng sinh, truyền
dịch và chuyển nhanh trẻ đến trung tâm có khả năng phẫu
nhi.

- Thường 1 ngày sau khi sinh trẻ sẽ được phẫu thuật đóng
lỗ dò để bảo vệ phổi khỏi dịch vị và để dễ dàng nuôi ăn
bằng đường nối thông dạ dày. Sau vài tuần, khi trẻ đã ổn
định và tăng cân, bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật mở thông dạ
dày.

Hẹp phì đại môn vị

Môn vị là một cơ vòng nối liền dạ dày với đoạn đầu của
ruột non. Bệnh xảy ra khi cơ vùng môn vị dày lên khiến
lòng môn vị bị hẹp lại. Dị tật này thường làm trẻ bị nôn ói,
do sự ứ tắt sữa và các thức ăn khác ở môn vị dội ngược về
thực quản. Nếu không được phát hiện sớm, trẻ sẽ sẽ có
chiều hướng ngày càng yếu sức do không ăn được. Tỷ lệ

bệnh thường xảy ra với bé trai nhiều hơn gái.

Dấu hiệu và cách khắc phục dị tật:

- Bé thường bị nôn 2 – 3 tuần sau sinh, nôn vọt ngay sau
bú.

- Nôn ói có vòi, thành tia, chất nôn không có mật. Sau ói,
trẻ mút vú mẹ liên tục do đói.

- Trẻ sẽ bị mất nước, da khô, táo bón, sút cân do dinh
dưỡng không đủ.

- Sờ vùng dưới gan có thể thấy cục u.

Trẻ thường được đặt sonde dạ dày, truyền dịch và chuyển
phẫu nhi càng sớm càng tốt. Một phẫu thuật đơn giản sẽ
chữa khỏi hẳn chứng bệnh này.

Tắt tá tràng

Bệnh thường có 2 khả năng: tắt tá tràng một phần hay toàn
phần. Từ khi còn trong bụng mẹ thai nhi cũng có thể được
siêu âm để phát hiện bệnh. Sau khi sinh, nếu để ý thấy
những dấu hiệu sau đây, hãy đưa bé đi phẫu thuật kịp thời:

- Trẻ ói tái đi tái lại (thường có mật xanh) nhưng không có
chướng bụng, đau hoặc hoại tử.

- X-quang bụng để phát hiện.


Bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật trong thời gian sớm nhất.

Thoát vị hoành

Thoát vị hoành bẩm sinh là sự thông nối bất thường giữa
khoang màng phổi và khoang màng bụng do khiếm khuyết
cơ hoành. Ruột, gan, lách bị thay đổi vị trí nằm trong lồng
ngực. Tỷ lệ bẩm sinh thường từ 1/5000 đến 1/10000 trẻ.
Bệnh diễn tiến nặng với tỷ lệ tử vong khoảng 50%.

Triệu chứng bệnh:

Sau khi sinh, trẻ bị suy hô hấp nặng trong vài giờ đầu của
cuộc sống. Khó thở nguy kịch, tím tái, có lúc ngưng thở.
Tình trạng tím tái ngày càng nặng thêm.Nhìn thấy lồng
ngực bên bị thoát vị di động ít theo nhịp thở. Ngực phồng,
bụng lép.

Xử trí bệnh:

Trẻ được hút đàm nhớt, thở oxy qua nội khí quản. Đặt nằm
trên mặt phẳng, đầu cao. Cho trẻ nằm nghiêng về phía bị
thoát vị. Bác sĩ sẽ cho đặt ống thông dạ dày, hút dịch và đặt
các đường truyền. Phẫu thuật được thực hiện sau khi đã ổn
định hô hấp.

Cần phát hiện sớm để có phương pháp điều trị thích hợp
(google image)


Hở thành bụng

Hở thành bụng là khiếm khuyết thành bụng ở vùng trung
tâm. Ruột nhô ra và phúc mạc tiếp xúc trực tiếp với dịch ối.
Tỷ lệ trẻ mắc bệnh khá hiếm, thường gặp ở trai nhiều hơn
gái.

Phẫu thuật như thế nào?

Ruột bị tổn thương và có nguy cơ bị thiếu máu nghiêm
trọng. Các nguy cơ khác là nhiễm trùng, mất nhiệt, thoát
dịch. Nên đặt trẻ nằm nghiêng phải, che ruột với gạc tẩm
nước muối sinh lý vô trùng và đặt trong bọc kính trong. Trẻ
được cho kháng sinh, đặt ống thông mũi – dạ dày, truyền
dịch. Phẫu thuật nên thực hiện ngay, nếu có thể nên đóng
thành bụng bị hở. Nếu ổ bụng quá nhỏ phải ủ ấm nhân tạo
để bảo vệ ruột cho đến khi thành bụng và trẻ đủ lớn để thực
hiện đóng bụng trực tiếp.

Thoát vị rốn

Thoát vị rốn là sự thoát vị các thành phần trong ổ bụng vào
trong đáy cuống rốn do sự phát triển không đúng mức của
cơ và da thành bụng trước.

Khác với hở thành bụng là ruột vô trùng và được bảo vệ
bởi dây rốn nên không có vấn đề lớn về nhiễm trùng và
thoát dịch. Tuy nhiên, màng bao có thể bị phá huỷ trong lúc
sinh.


Dấu hiệu

Thấy ở vùng bụng nơi có dây rốn bám vào có một khối to
cỡ quả chanh hay quả cam. Qua lớp màng bụng mỏng nhìn
thấy được các quai ruột bên dưới.

Chăm sóc trước phẫu thuật:

- Bọc khối thoát vị bằng khăn ấm vô trùng tẩm nước muối
sinh lý.

- Trẻ được đặt ống thông dạ dày trước khi chuyển đến trung
tâm phẫu thuật.

- Xử trí phẫu thuật tiên lượng tốt hơn hở thành bụng. Tuy
nhiên, khoảng 25– 40% trường hợp có thể phối hợp các dị
tật khác.

Không có hậu môn

Đây là dị tật tắc phần cuối cùng của ống tiêu hoá, có thể
gây tử vong cho trẻ nếu không được phẫu thuật kịp thời.
Không có hậu môn được định nghĩa là không có lỗ hậu
môn hoặc vị trí và kích thước hậu môn bất thường. Với dị
tật này không thể phát hiện trước khi sinh bằng siêu âm.

Nhận biết dị tật và phương thức phẫu thuật

Không có lỗ hậu môn thấp, khoảng teo có thể đo được bằng
siêu âm bụng và tầng sinh môn. Nên kết hợp siêu âm thận

và bàng quang để phát hiện các dị dạng có liên
quan.

Phẫu thuật nối trực tiếp hậu môn hoặc nối ruột tùy vào
khoảng cách. Phẫu thuật có thể thực hiện trong vài ngày
đầu, thời gian này trẻ được truyền dịch.
BS. Diệu Dung
Theo Webtretho

×