Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tiểu luận công nghệ xử lý khoáng sản pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (660.73 KB, 26 trang )

Trường Đại học Bách Khoa
Khoa Công nghệ Hoá học
Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh
BỘ MÔN HOÁ HỌC VÔ CƠ
  
BK
TP HCM
CN XỬ LÝ KHOÁNG SẢN
ĐỀ TÀI:
Quặng đồng và quặng đồng ở Việt Nam
Phương pháp chế biến để thu CuSO
4
tinh thể
và Cu kim loại
GV:Phan Đình Tuấn
: Bạch Hoài Vươngơ2
Lớp: HC07VS
Tên SV: Nguyễn Xuân Phú
MSSV: 60701814
Mục lục
I. Quặng đồng
1. Sơ lược về kim loại đồng
2. Sơ lược về quặng đồng
3. Quặng đồng ở Việt Nam
a. Vùng tụ khoáng Sinh Quyền (Lào Cai)
b. Vùng tụ khoáng Bản Phúc (Sơn La)
c. Vùng tụ khoáng Vạn Sài (Sơn La)
d. Hai điểm quặng Hồng Thu và Quang Tân Trai (Lai Châu)
e. Điểm quặng Bản Giàng (Sơn La)
f. Vùng tụ khoáng đồng Suối Nùng (Quảng Ngãi)
4. Tình hình khai thác và sản xuất các sản phẩm đồng tại Việt Nam


a. Mỏ đồng Sinh Quyền
b. Mỏ đồng Bản Phúc
5. Vấn đề quặng thải và sản phẩm đi kèm
6. Vấn đề thuốc tuyển
7. Tình hình thị trường
II. Phương pháp điều chế đồng từ quặng đồng
1. Nguyên liệu
a. Quặng và tinh quặng đồng
b. Quặng và tinh quặng đồng ở Việt Nam
c. Phế liệu chứa đồng
2. Thực trạng khai thác và chế biến đồng
a. Công nghệ chế biến quặng đồng
b. Tình hình khai thác và sản xuất tại Việt Nam
3. Phương pháp thủy luyện đồng
a. Cơ sở lý thuyết
b. Thiết bị và công nghệ thủy luyện đồng
c. Các chỉ tiêu kinh tế và kĩ thuật
d. Phương hướng phát triển thủy luyện đồng
4. Các phương pháp tinh luyện đồng
a. Hỏa tinh luyện đồng
b. Điện phân luyện đồng
c. Phương hướng phát triển tinh luyện đồng
III. Phương pháp điều chế CuSO4 tinh thể.
1. Sơ lược về đồng sulfat
2. Phương pháp điều chế đồng sulfat tinh thể
IV. Kết luận
1
LỜI MỞ ĐẦU
I. QUẶNG ĐỒNG
1.Sơ lược về kim loại đồng

Đồng là một kim loại có màu vàng ánh đỏ, có độ dẫn điện và độ dẫn nhiệt cao
(trong số các kim loại nguyên chất ở nhiệt độ phòng chỉ có bạc có độ dẫn điện cao hơn).
Đồng có lẽ là kim loại được con người sử dụng sớm nhất do các đồ đồng có niên đại
khoảng năm 8700 trước công nguyên (TCN) đã được tìm thấy. Ngoài việc tìm thấy đồng
trong các loại quặng khác nhau, người ta còn tìm thấy đồng ở dạng kim loại (đồng tự
nhiên) ở một nơi.
Đồng đã được ghi chép trong các tư liệu của một số nền văn minh cổ đại, và nó có
lịch sử sử dụng ít nhất là 10.000 năm. Hoa tai bằng đồng đã được tìm thấy ở miền bắc
Iraq có niên đại 8.700 năm TCN. Khoảng 5.000 năm TCN đã có những dấu hiệu của việc
luyện, nấu đồng, việc tinh chế đồng từ các ôxít đơn giản của đồng như malachit hay
azurit. Các dấu hiệu sớm nhất của việc sử dụng vàng chỉ xuất hiện vào khoảng 4.000 năm
TCN.
Người ta còn tìm thấy các đồ vật bằng đồng nguyên chất và đồng đỏ ở các thành phố
Sumeria có niên đại 3.000 năm TCN, và các đồ vật cổ đại của người Ai Cập bằng đồng và
hợp kim của đồng với thiếc cũng có niên đại tương tự. Trong một kim tự tháp, một hệ thống
hàn đồng đã được tìm thấy có niên đại 5.000 năm. Người Ai Cập đã phát hiện ra rằng nếu
thêm một lượng nhỏ thiếc vào sẽ làm cho kim loại trở nên dễ đúc hơn, vì thế các hợp kim
đồng đỏ đã được tìm thấy ở Ai Cập gần như là đồng thời cùng với đồng. Việc sử dụng đồng ở
Trung Hoa cổ đại có niên đại ít nhất là 2.000 năm TCN. Vào khoảng 1200 năm TCN những
đồ đồng đỏ hoàn hảo đã được sản xuất ở Trung Quốc. Cũng lưu ý rằng các số liệu ngày, tháng
này chịu ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh do đồng rất dễ nấu chảy và được tái sử dụng. Tại
châu Âu, Oetzi the Iceman, thi thể một người đàn ông được bảo quản tốt có niên đại 3.200
TCN, đã được tìm thấy với chiếc rìu bịt đồng có độ tinh khiết của đồng là 99,7%. Nồng độ cao
của asen trong tóc của ông ta có lẽ là do ông đã tham gi vào việc nấu đồng.
Việc sử dụng đồng đỏ đã phát triển trong thời đại của các nền văn minh được đặt tên là
thời đại đồ đồng hay thời đại đồng đỏ. Thời kỳ quá độ trong các khu vực nhất định giữa thời
2
kỳ đồ đá mới và thời kỳ đồ sắt được đặt tên là thời kỳ đồ đồng, với một số công cụ bằng đồng
có độ tinh khiết cao được sử dụng song song với các công cụ bằng đá.
Đồng thau, một hợp kim của đồng với kẽm, được biết đến từ thời kỳ Hy Lạp

nhưng chỉ được sử dụng rộng rãi bởi người La Mã.
Đồng là nguyên liệu quan trọng của công nghiệp. Xét về khối lượng tiêu thụ, đồng xếp
hàng thứ ba trong các kim loại, chỉ sau thép và nhôm. Do tính dẫn điện, dẫn nhiệt tốt, độ bền
khá cao nên đồng và hợp kim đồng được sử dụng rộng rãi làm dây dẫn điện trong các thiết bị
điện công nghiệp và dân dụng. Ngoài ra, đồng và hợp kim đồng còn được sử dụng nhiều trong
chế tạo máy, xây dựng, sản xuất điện cực, Các hợp chất đồng như đồng oxit, đồng sunfat,
đồng oxyclorua cũng được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như nông nghiệp, đóng tàu,
bảo quản gỗ,
2.Sơ lược về quặng đồng
Trong thiên nhiên, quặng đồng tồn tại ở nhiều dạng khác nhau như tinh thể, cục,
mẩu, tấm, Về mặt hóa học, đồng tồn tại phổ biến nhất là ở quặng chứa đồng có gốc
sunfua, ngoài ra cũng ở dạng cacbonat hoặc oxit. Những quặng đồng quan trọng nhất là
chalcopyrit CuFeS
2
, bornit Cu
3
FeS
3
, chalkosin Cu
2
S, bournonit 2PbS.Cu
2
S.Sb
2
S
3
, ngoài ra
còn một số loại quặng đồng có ý nghĩa kinh tế là: malachit Cu
2
{(OH)

2
/CO
3
)}, azurit
2CuCO
3
.Cu(OH)
3
, cuprit Cu
2
O, chrysocol CuSiO
3
.2H
2
O, Phần lớn quặng đồng trên thế
giới chỉ có hàm lượng đồng khoảng 2% nên không thể sử dụng trực tiếp để chế biến mà
phải được xử lý làm giàu quặng.
Tên khoáng vật Công thức hoá học Hàm lượng Cu %
γ (g/cm
3)
Chalcopyrite
Bocnit
Cancodi
CuFeS
2
Cu
3
FeS
3
Cu

2
S
34.6
55.6
79.9
4.2
4.9-5.4
5.5-5.8
3
Covelin
Malakhit
Azurit
cuprit
melaconit
khôicon
Đồng tự nhiên
CuS
CuCO
3
.Cu(OH)
2
2CuCO
3
.Cu(OH)
2
Cu
2
O
CuO
CuSiO

3
.2H
2
O
Cu
68.5
57.4
55.1
88.8
79.9
36.2
99.9
4.6
3.9
3.7-3.8
5.8-6.1
5.8-6.3
2.0-2.2
8.9
3.Quặng đồng ở Việt Nam
Quặng đồng Việt Nam thuộc vào 4 loại có nguồn gốc hình thành khác nhau là: magma,
thuỷ nhiệt, trầm tích, biến chất. Quặng đồng phân tán ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Sơn La,
Quảng Ninh, Hà Bắc, Quảng Nam-Đà Nẵng, Lâm Đồng Các mỏ quặng đồng ở những tỉnh
này thường có trữ lượng nhỏ, thành phần khoáng đa dạng, bao gồm nhiều loại như quặng
sunfua, cacbonat, nhưng thường gặp là quặng chalcopyrit. Tổng trữ lượng các mỏ đã thăm dò
ước đạt khoảng 600.000 tấn đồng.
Những vùng tụ khoáng quặng đồng quan trọng ở nước ta là:
- Vùng tụ khoáng Sinh Quyền (Lào Cai)
- Vùng tụ khoáng Bản Phúc (Sơn La)
- Vùng tụ khoáng Vạn Sài (Sơn La)

- Điểm quặng Bản Giàng (Sơn La)
- Vùng tụ khoáng Suối Nùng (Quảng Ngãi)
Ngoài các vùng quặng chính như trên, còn có rất nhiều điểm quặng khác phân bố rải
rác ở các tỉnh Thanh Hóa. Lạng Sơn, Lào Cai.
Đánh giá tình hình phân bố, trữ lượng và chất lượng quặng đồng tại một số mỏ
quặng đồng chính:
a. Vùng tụ khoáng Sinh Quyền (Lào Cai)
4
Mỏ đồng Sinh Quyền (Lào Cai) nằm ở hữu ngạn Sông Hồng, cách Lào Cai 25 km
về phía Tây Bắc. Có thể tiếp cận vùng tụ khoáng này cả bằng đường sắt và đường ôtô rải
nhựa từ Hà Nội đến Lào Cai, sau đó đi đường đất đến làng Sinh Quyền. Vào mùa mưa,
khi nước sông lên cao, có thể vận chuyển quặng từ mỏ theo đường thuỷ trên Sông Hồng.
Khu mỏ Sinh Quyền được đánh giá là vùng quặng hỗn hợp gồm ba thành phần
chính là đồng, đất hiếm và vàng. Đồng ở đây chủ yếu là ở dạng sunfua (chalcopyrit). Mỏ
đã được phát hiện, tìm kiếm và thăm dò từ những năm 1961-1873, năm 1975 được Hội
đồng trữ lượng Nhà nước phê duyệt với trữ lượng 52,7 triệu tấn quặng đồng cấp
B+C1+C2, hàm lượng đồng trung bình khoảng 1,03%, tương đương 551,2 nghìn tấn Cu,
kèm theo 334 nghìn tấn R
2
O, 35 tấn Au, 25 tấn Ag, 843 nghìn tấn S.
Vùng quặng này có 3 dải chính: dải Lùng Thàng - Pin Ngang Chải ở phía Tây là
dải quặng đồng - đất hiếm - molybđen. Dải giữa Sinh Quyền-Nậm Mít là dải quặng chính
gồm quặng đồng - đất hiếm. Dải Thùng Sáng-Lũng Pô ở phía Đông gồm các mạch quặng
thạch anh - sunfua chứa đồng. Diện tích mỏ không lớn, trữ lượng quặng phân bố tập
trung, rất thuận tiện cho việc khai thác, ít ảnh hưởng đến môi trường và đất đai nông lâm
nghiệp.Mỏ đồng Sinh Quyền có 17 thân mỏ, trong đó 10 thân quặng sau đây được xếp
loại là có giá trị kinh tế.
b. Vùng tụ khoáng Bản Phúc (Sơn La)
Mỏ đồng Bản Phúc là vùng tụ khoáng đồng - niken dạng sunfua lớn nhất nước ta,
nằm ở khu vực Tà Khoa, tỉnh Sơn La. Vùng này đã được thăm dò từ những năm 1959-

1963. Các thân quặng nằm ở độ cao 100 - 520 m trên mực nước biển. Có thể tiếp cận
vùng quặng này bằng đường số 6 từ Hà Nội qua Yên Bái đến Tà Khoa (khoảng 340 km).
Quặng có thể được vận chuyển bằng tàu thuyền theo Sông Đà, từ Tà Khoa qua đập thuỷ
điện Hoà Bình đến Hải Phòng (khoảng 400 km).Khối núi quặng Bản Phúc là một trong
những khối núi quặng hình elip lớn nhất, dài 940 m, rộng 440 m, có tổng diện tích 0,248
km2.
Các nghiên cứu địa chất cho thấy, thân quặng chính của mỏ Bản Phúc gồm chủ yếu
là pyrhotit, pentlandit và chalcopyrite.Quặng phân tán rải rác xung quanh thân quặng
5
chính, ngoài đồng còn chứa các khoáng với thành phần Fe, Zn, Pb, Co, Ni, như sau:
pyrit, sphalerit, galen, nicolit, skuterudit, ramebergit, violarite, thạch anh,
Tổng trữ lượng vùng tụ khoáng Bản Phúc ước đạt 3 triệu tấn quặng, với trữ lượng
kim loại trong quặng khoảng 200.000 tấn Ni-Cu. Trữ lượng đã khảo sát và chứng minh
được là : 115.000 tấn Ni, 41.000 tấn Cu, 161.000 tấn lưu huỳnh, 3.400 tấn Co, 14 tấn Te ,
67 tấn Se.
c. Vùng tụ khoáng Vạn Sài (Sơn La)
Vùng tụ khoáng Vạn Sài thuộc Sơn La, trữ lượng ước tính khoảng 811 tấn, hàm lượng
Cu đạt 1,53%.
d. Hai điểm quặng Hồng Thu và Quang Tân Trai (Lai Châu)
Hai điểm quặng Hồng Thu và Quang Tân Trai thuộc tỉnh Lai Châu, đã được khai
thác từ thời xa xưa. từ những năm 1990 trở lại đây, dân địa phương vẫn khai thác tự do để
lấy quặng đồng chất lượng cao.
e. Điểm quặng Bản Giàng (Sơn La)
Điểm quặng Bản Giàng thuộc Sơn La có quặng đồng tự sinh.
f. Vùng tụ khoáng đồng Suối Nùng (Quảng Ngãi)
Vùng tụ khoáng đồng Suối Nùng thuộc tỉnh Quảng Ngãi mới được phát hiện. Thành
phần khoáng vật chủ yếu là chalcopyrit với hàm lượng Cu đạt 1,04%, ngoài ra còn có bạc,
vàng, arsen, thiếc, vonfram. Ước tính, trữ lượng đồng khu vực này có thể lên đến vài trăm
ngàn tấn.
Ngoài các vùng quặng chính như trên, còn có rất nhiều điểm quặng khác phân bố rải

rác ở các tỉnh Thanh Hóa, Lạng Sơn, Lào Cai.
4. Tình hình khai thác và sản xuất tại Việt Nam
6
Hiện nay, các mỏ trữ lượng nhỏ dạng khoáng cacbonat đã được các địa phương
khai thác và chế biến theo phương pháp thủ công, đơn giản. Sản phẩm là các loại muối
đồng phục vụ trực tiếp cho ngành nông nghiệp.
a. Mỏ đồng Sinh Quyền
Trước đây, mỏ đồng Sinh Quyền Xí nghiệp liên doanh giữa công ty kim loại màu
Thái Nguyên và công ty khoáng sản Lào Cai khai thác quặng và tuyển thành tinh quặng
đồng có hàm lượng 18-20% Cu nhằm mục đích xuất khẩu. Xí nghiệp liên doanh được nhà
nước cho phép khai thác một khối lượng quặng nguyên sinh là 615.000 tấn, tương ứng
9.796 tấn đồng kim loại, chiếm khoảng 1,8% trữ lượng toàn mỏ. Xí nghiệp liên doanh này
được xây dựng năm 1982, năm 1994 bắt đầu đi vào hoạt động. Mỗi năm Xí nghiệp sản
xuất khoảng 3.200 tấn tinh quặng với hàm lượng trung bình 18% Cu. Do xí nghiệp liên
doanh có quy mô nhỏ, thiết bị nhỏ lẻ nên khó đầu tư chiều sâu hoặc mở rộng. Vì vậy,cuối
năm 2000 chính phủ đã có quyết định thực hiện dự án đầu tư tổ hợp đồng Sinh Quyền.
Sáng 17-9-2003 tại huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Tổng công ty Khoáng sản VN đã
khởi công xây dựng dự án tổ hợp đồng Sin Quyền, dự án kim loại màu lớn nhất nước ta từ
trước đến nay.
Mỏ đồng Sin Quyền được phát hiện năm 1961. Theo kết quả khảo sát, thăm dò trữ
lượng quặng đồng tại mỏ là trên 50 triệu tấn, đủ khai thác trong vòng 50 năm.
Tổ hợp đồng Sinh Quyền được xây dựng với sự giúp đỡ kỹ thuật của Trung Quốc, đã di
vào hoạt động năm 2006. Các thông số chủ yếu của dự án đồng như sau:
- Địa điểm: Mỏ và xưởng tuyển tại xã Cốc Mì, huyện Bát Xát, Lào Cai. Nhà máy luyện
đồng tại khu vực xã Tà Loỏng, huyện Cam Đường.
- Công nghệ khai thác: lộ thiên kết hợp với hầm lò. Nếu mỏ khai thác với sản lượng 1,0 -
1,5 triệu tấn quặng /năm thì thời gian khai thác là 40 năm, trong đó 16 năm khai thác lộ thiên và
24 năm khai thác hầm lò.
- Công nghệ tuyển khoáng bao gồm các bước sau: đập nghiền - tuyển nổi lấy tinh quặng
thô - nghiền lại tinh quặng thô - tuyển nổi chọn riêng tinh quặng đồng, tinh quặng pyrit, tinh

quặng đất hiếm. Quặng đuôi cho qua tuyển từ để thu hồi tinh quặng sắt. Công nghệ khử nước
được thực hiện theo hai giai đoạn cô đặc và lọc. Tinh quặng đồng được làm khô bằng máy lọc sứ.
7
- Công nghệ luyện kim: áp dụng phương pháp Thuỷ Khẩu Sơn (luyện bể) của Trung
Quốc, thổi luyện sten đồng trong lò để chuyển ra đồng thô rồi tinh luyện bằng điện phân, xử lý
bùn dương cực để thu hồi vàng bạc. Thu hồi khí lò luyện kim có chứa khí SO
2
để sản xuất axit
sunfuric.
Nhà máy luyện đồng đặt tại Tằng Loỏng cách mỏ 65km, được trang bị các thiết bị luyện
đồng theo công nghệ mới nhất của Trung Quốc. Mỗi năm nhà máy luyện 420.000 tấn
tinh
quặng đồng để ra được 10.200 tấn kim loại đồng với hàm lượng 99,95%; 340kg
vàng (99,95%), 113.200 tấn tinh quặng sắt, 145kg bạc và 40.000 tấn sulfuric acid.
Dự án có số vốn đầu tư 987,2 tỉ đồng (trong đó có 40,5 triệu USD) vay vốn ưu đãi của
Trung Quốc, thông qua việc mua thiết bị và công nghệ .
- Sản lượng khai thác của tổ hợp đồng Sinh Quyền dự kiến là 1,0 đến 1,2 triệu tấn
quặng nguyên khai.
- Sản lượng hàng năm của nhà máy tuyển dự kiến sẽ là:
+ Tinh quặng đồng 25,6% Cu: 42.900 tấn
+ Tinh quặng pyrit 40% S: 17.600 tấn
+ Tinh quặng manhêtit 65% Fe: 89.300 tấn
+ Tinh quặng đất hiếm 60% ReO: 2740 tấn
- Sản lượng hàng năm của nhà máy luyện kim dự kiến là:
+ Đồng điện phân 99,95%: 10.571 tấn
+ Vàng thỏi 99,95% Au: 367 kg
+ Bạc thỏi 99,95% Ag: 206 kg
8
+ Axit sunfuric 98%: 39.943 tấn
b. Mỏ đồng Bản Phúc

Mỏ Bản Phúc có trữ lượng đồng chỉ bằng 1/10 so với mỏ Sinh Quyền. Tại đây, có thể
cân đối đầu tư nhà máy khai thác-tuyển để sản xuất tinh quặng đồng đạt hàm lượng 25%
Cu, với công suất tuyển quặng nguyên khai khoảng 150.000 tấn /năm, tương đương 6.000
tấn tinh quặng đồng /năm.
Cuối năm 2002, Quốc hội và Chính phủ đã xem xét phê duyệt dự án thuỷ điện Sơn
La. Nếu dự án thủy điện Sơn La được hoàn thành (theo kế hoạch vào năm 2006) thì tại mỏ
đồng Bản Phúc có thể xây dựng nhà máy luyện đồng với công suất khoảng 1.000 tấn /năm.
5. Vấn đề quặng thải và sản phẩm đi kèm
Trong các sản phẩm của nhà máy tuyển quặng đồng, một số sản phẩm đi kèm như tinh
quặng pyrit, tinh quặng sắt và tinh quặng đất hiếm hiện còn khó khăn về đầu ra: tiêu thụ trong nước
tương đối khó, còn thị trường xuất khẩu chưa có. Nhưng nếu không tận dụng các loại tinh quặng này
thì hiệu quả kinh tế của dự án có thể giảm. Vì vậy, có những ý kiến cho rằng nên có phương án tạm
trữ số tinh quặng pyrit và tinh quặng sắt cho đến khi đạt khối lượng đủ lớn thì sẽ tận dụng để sản
xuất gang thép và axit sunfuric.
Hiện tại có một vài phương án tận dụng quặng thải quy mô nhỏ. Ví dụ, năm 1999,
Viện khoa học công nghệ mỏ đã nghiên cứu phát triển dây chuyền sản xuất bột manhêtit
siêu mịn làm chất tạo huyền phù tuyển than, sử dụng quặng thải đồng Sinh Quyền.
Trong những năm qua, dây chuyền trên đã sản xuất được hàng trăm tấn quặng
manhêtit siêu mịn từ quặng thải đồng Sinh Quyền, chủ động cung cấp cho hai nhà máy
tuyển than Hòn Gai và Cửa Ông, chất lượng tương đương manhêtit nhập từ CHLB Nga, giá
thành thấp. Trên thực tế, manhêtit siêu mịn sản xuất từ nguồn quặng Sinh Quyền còn có ưu
điểm hơn manhêtit nhập từ Nga, vì hàm lượng quặng có từ tính hơn 400 Gaus đạt trên 93%,
do đó giảm đáng kể tổn thất manhêtit khi sử dụng làm chất tạo huyền phù tuyển than.
6. Vấn đề thuốc tuyển
9
Trong quá trình tuyển quặng đồng bằng phương pháp tuyển nổi, các mỏ đồng như Sinh
Quyền, Bản Phúc sẽ cần tới hàng trăm tấn thuốc tuyển / năm, vì vậy cần đặt vấn đề tự
nghiên cứu sản xuất thuốc tuyển thay thế cho sản phẩm nhập khẩu.
7. Tình hình thị trường
Các sản phẩm chính thu được từ chế biến quặng đồng bao gồm: CuSO

4
.5H
2
O, Cu
2
O, bột
Cu, oxyclorua đồng, đồng thô, đồng điện phân (đồng đỏ).
Hiện nay, Việt Nam chưa có công nghiệp luyện đồng nên vẫn phải nhập đồng kim
loại. Nhu cầu về đồng trong nước hiện nay khoảng hơn 10.000 tấn, trong đó chủ yếu là
đồng dạng kim loại sử dụng trong công nghiệp điện và thiết bị điện. Riêng nhà máy cán
kéo đồng CFT (liên doanh của công ty CADIVI với Nhật Bản) đã có công suất 50.000 tấn
/năm. Như vậy, nếu tổ hợp đồng Sinh Quyền với công suất dự kiến 10.000 tấn đồng điện
phân/ năm đi vào hoạt động thì cũng vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu trong nước.

Ngoài ra, ngành bảo vệ thực vật có nhu cầu hàng năm trên 200 tấn oxyclorua
đồng.
Ngành công nghiệp tàu biển sử dụng khoảng 30 tấn đồng (I) oxyt /năm. Giá các sản
phẩm này đều cao, khoảng 1900-2000 USD/tấn.
Theo mức độ công nghiệp hóa đất nước, nhu cầu về đồng của nước ta sẽ ngày càng tăng.
Dự báo, đến năm 2005 nhu cầu đồng trong nước sẽ là 15.000 tấn/năm, và đến năm 2020 nhu cầu sẽ
tăng lên đến 35.000 - 40.000 tấn / năm.
Các nước trong khu vực lân cận với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn
Quốc, Ấn Độ đều thiếu đồng và tinh quặng đồng từ 500.000 tấn đến 700.000 tấn/năm. Mỗi
năm, Trung Quốc nhập khoảng 375.000 tấn tinh quặng đồng, 1,69 triệu tấn đồng vụn. Mức
tiêu thụ đồng theo đầu người hàng năm ở Trung Quốc là 1,1 kg, còn ở các nước công
nghiệp tiên tiến như Mỹ thì mức tiêu thụ khoảng 10 kg.

Hiện nay, sản phẩm đồng của ta khó cạnh tranh được với sản phẩm nhập ngoại
vì giá thành sản xuất cao hơn giá nhập.
II. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHẾ ĐỒNG TỪ QUẶNG ĐỒNG

1.Nguyên liệu:
10
a . Quặng và tinh quặng đồng: hàm lường đồng trong vỏ Trái đất khoảng 0,01%. Trong thiên
nhiên có tới 250 loại khoáng vật chứa đồng nhưng thực tế chỉ có vài loại có ý nghĩa thực tế.
Theo thành phần hoá học, quặng đồng chia làm 2 loại cơ bản:
- Quặng sunfua là dạng cơ bản, chiếm tới 85-90% tổng lượng quặng đồng.
- Quặng oxit (cacbonat, silicat,…)
Theo hàm lượng đồng:
- Quặng nghèo (<1%Cu).
- Quặng trung bình (1-3% Cu).
- Quặng giàu (>3% Cu).
Tên khoáng vật Công thức hoá học Hàm lượng Cu %
γ (g/cm
3)
Chalcopyrite
Bocnit
Cancodi
Covelin
Malakhit
Azurit
cuprit
melaconit
khôicon
Đồng tự nhiên
CuFeS
2
Cu
3
FeS
3

Cu
2
S
CuS
CuCO
3
.Cu(OH)
2
2CuCO
3
.Cu(OH)
2
Cu
2
O
CuO
CuSiO
3
.2H
2
O
Cu
34.6
55.6
79.9
68.5
57.4
55.1
88.8
79.9

36.2
99.9
4.2
4.9-5.4
5.5-5.8
4.6
3.9
3.7-3.8
5.8-6.1
5.8-6.3
2.0-2.2
8.9
Các tính chất của quặng đồng:
 Phức tạp: ngoài đồng ra còn chứa các hợp chất của kim loai màu nặng khác như Ni, Zn, Pb,
…;các hợp chất của kim loại hiếm Te, Se, Bi,… ;các kim loại quí Au,Ag; các đát đá SiO2, CaCO3,
Al2O3…
 Đa kim: thường gặp quặng đồng đi liền với Co, Ni, Zn,…
 Nghèo: hàm lượng trung bình của quặng là 1-2%.
Do quặng đồng nghèo và phức tạp, người ta phải tuyển làm giàu quặng để loại trừ đất
đá chay và phân chia các khoáng vật có ích.
11
Phương pháp tuyển hiệu quả nhất và hiệu quả nhất đối với quặng đồng sunfua là
tuyển nổi .
Thành phần trung bình của tinh quặng đồng dao động trong phạm vi sau :8-35% Cu,
43-15% S, 37-16%Fe, 5-29%SIO
2
,3-8%Al
2
O
3

, 0.5 -2% CaO
b. Quặng và tinh quặng đồng ở Việt Nam
Nguồn nguyên liệu đồng, đồng –Niken của ta có nhiều nơi, song quan trọng nhất là ở
Lào Cai, Sơn La…Trữ lượng đã thăm dò ước lượng khoảng vài chục triệu tấn quặng với
khoảng vài trăm nghìn tấn đồng. Hàm lượng quặng trung bình là 1.2% Cu. Sau khi tuyển 2
giai đoạn (tập hợp và phân chia) thu được tinh quặng đồng với hàm lượng trung bình khoảng
18% Cu, các kim loại quý hiếm và khoảng 6.5% SiO
2
.
Đặc điểm của tinh quặng Vịêt Nam là có phẩm vị trung bình ; thành phần tạo xỉ khác
xa so với thành phần yêu cầu, do đó tốn nhiều trợ dung nhất là SiO
2
; có nhiều kim lọai quý
và hiếm như Au , Ag , Se, Te, U , Th và đất hiếm.
c. Phế liệu chứa đồng
Phế liệu chứa đồng chủ yếu gồm 2 nhóm sau:
 Nhóm phế liệu phân loại được :nhóm này gồm đồng kim loại như dây dẫn
điện, các loại cáp điện, các phế liệu trong khâu gia công đồng và hợp kim đồng, phoi
đồng thau sạch, phế liệu ở dạng ống , tấm, cực điện trong công nghiệp điện tử, thiết bị
lạnh , các đồ dùng trong gia đình bằng đồng, vỏ đạn cỡ lớn, phế liệu trong đúc đồng …
Đây là nhóm phế liệu có chất lượng cao, có nguồn gốc xác định, có thành phần hoá học
tương đối ổn định.
 Nhóm phế liệu không thể phân loại được: Nhóm này có chất lượng thấp,
bao gồm phôi và và hợp kim đồng hỗn tạp; phế liệu bimetan thép – đồng; thép hợp kim
chứa đồng; đồng thau bẩn ; xỉ đồng các lọai ; rác chứa đồng (đất làm khuôn, cát nền
xưởng đúc đồng, rác quét nền phân xưởng đúc và gia công đồng )
Thành phần hoá học ước lượng của phế liệu đồng %
Loại phế liệu Cu Sn Zn Pb Fe
Không thể phân loại 30 1.6 12 1.5 -
12

Bimêtan
Đồng thau bẩn
6
60
-
2.5
2
23.5
-
2.5
90
-
2. Thực trạng khai thác và chế biến đồng
a. Công nghệ chế biến quặng đồng
Trên thế giới hiện có hai xu hướng kinh điển trong chế biến quặng đồng, đó là:
- Hoả luyện: Nung oxi hóa quặng đồng để chuyển thành CuO, sau đó đem khử
thành đồng kim loại và tinh chế bằng điện phân.
- Thủy luyện: Nung oxi hóa quặng đồng để chuyển thành CuO, sau đó hoà tan
CuO bằng axit để thu được dung dịch muối đồng, tiếp theo là tinh chế dung dịch này và
tách đồng bằng phương pháp điện phân.
Xu hướng hiện đại là tách đồng bằng quy trình ngâm chiết vi sinh vật (sử dụng vi
khuẩn Thiobacillus ferrooxidans), sau đó kết tủa đồng bằng điện phân. Quy trình này đã
được nhà sản xuất đồng lớn nhất thế giới là công ty Codeco (Chi Lê) áp dụng có hiệu quả
đối với quặng chalcopyrit. Phương pháp ngâm chiết sinh học thường được thực hiện tại
các nước có nền khoa học công nghiệp cao, cho phép tận thu đồng từ quặng nghèo, ít gây
hại đến môi trường.
b. Tình hình khai thác và sản xuất tại Việt Nam
Hiện nay, các mỏ trữ lượng nhỏ dạng khoáng cacbonat đã được các địa phương khai
thác và chế biến theo phương pháp thủ công, đơn giản. Sản phẩm là các loại muối đồng
phục vụ trực tiếp cho ngành nông nghiệp.

3. Phương pháp thuỷ luyện đồng.
a. Cơ sở lí thuyết
+Thuỷ luyện đồng: là phương pháp luỵên kim dựa trên nguyên lí về hoà tách, kết tủa
và xử lí bằng điện hoá để xử lí quặng đồng, thu hồi đồng kim loại.
Phương pháp này thường được dùng với các quặng :quặng đồng oxit nghèo chứa ít
vàng và bạc; quặng đồng tự nhiên và nước mỏ ở vùng khoáng sản đồng.
Hiện nay thủy luyện đồng mới chiếm khỏng 10- 15% lượng đồng được sản xuất ra
13
hàng năm. Tuy nhiên, cùng với yêu cầu xử lý ngày càng nhiều quặng đồng oxit nghèo, sự
dồi dào của các sản phẩm hóa học và yêu cầu bảo vệ môi trường, phương pháp thủy
luyên đồng chắc chằn sẽ ngày càng hoàn thiện và phát triển hơn.
Vấn đề dung môi hoà tách:thường sử dụng 3 loại dung môi chính:
- Axit sunfuric loãng( 5% H
2
SO
4
loãng) :CuCO
3.
Cu(OH)
2
, CuSiO
3
.2H
2
O, CuO,
Cu
2
O bị hoà tan trong môi trường ,dung môi này được dùng để hòa tách quặng oxit đồng
chứa ít tạp tính bazơ. Nó rất dễ tái sinh khi điện phân để kết tủa đồng cực âm.
Các phản ứng hòa tách chủ yếu:

CuCO
3
.Cu(OH)
2
+ H
2
SO4 = 2CuSO
4
+ CO
2
+ 3H
2
O
CuSiO3.2H2O + H
2
SO
4
= CuSO
4
+SiO
2
+ 3H
2
O
CuO + H
2
SO
4
= CuSO
4

+H
2
O
Cu
2
O chỉ hòa tan được một phần trong H
2
SO
4
- Dung dịch muối sắt III sunfat: dung môi này được dùng để hòa tách quặng đồng tự
nhiên , đồng oxit và cả đồng sunfua đơn giản. nó hòa tách rất yếu đối với chalcopyrit –
CuFeS
2
. Trong môi trường nước Fe
2
(SO
4
)
3
bị thủy phân mạnh. Vì vậy trong thực tế
người ta dùng nó cùng với axit H
2
SO
4
để chống thủy phân .Dung môi này hoà tan tốt Cu
2
S
và CuS .
Các phản ứng hòa tách chủ yếu:
Cu

2
S + 2 Fe
2
(SO
4
)
3
= 2CuSO
4
+ 4FeSO
4
+ S
CuS + Fe
2
(SO
4
)
3
= CuSO
4
+ 2FeSO
4
+ S
Các phản ứng này xảy ra rất chậm (10-12 ngày đêm). Dung môi này được đun
nóng lên trên 35
0
C. Dung môi này rất ít khi dùng độc lập mà thường chỉ là phần bổ sung
cho dung môi H
2
SO

4
để tăng cường hiệu suất tách đồng tự nhiên và các đồng sunfua có
lẫn trong quặng đồng oxít.
- Dung dịch amon [NH
4
OH-(NH
4
)
2
CO
3
] : dung môi này dùng để hòa tách quặng
đồng tự nhiên , đồng oxit chứa nhiều tạp chất tính bazơ. Do đặc tính dễ bay hơi của NH
3

và các hợp chất của nó, việc tái sinh và rửa bã rất đơn giản, dễ dàng.
Các phản ứng hòa tách chủ yếu:
Cơ sở hòa tách của quá trình hòa tách bằng dung môi này là các khóang đồng oxít có thể
tác dụng với NH
4
OH và (NH4)
2
CO
3
, tạo thành muối phức đồng amôn hòa tan trong dung
dịch nước:
14
CuCO
3
.Cu(OH)

2
+ NH
4
OH + (NH4)
2
CO
3
= 2Cu(NH
3
)
4
CO
3
+ 8H
2
O
Tương tự, melaconit cũng bị hòa tan:
CuO + 2 NH
4
OH + (NH
4
)
2
CO
3
= Cu(NH3)
4
CO
3
+ H2O

Cuprit tạo thành muối phức amôn đồng một:
Cu
2
O + 2 NH
4
OH + (NH
4
)
2
CO
3
= Cu
2
(NH
3
)
4
CO
3
+ 3H2O
Đồng tự nhiên cũng bị hòa tách bởi muối phức đồng amôn:
Cu + Cu(NH
3
)
4
CO
3
= Cu
2
(NH

3
)
4
CO
3
Các đồng sunfua và kim lọai qúy không hòa tan trong dung dịch muối amôn. Dung môi
này cũng không tác dụng với Fe
2
O
3
và CaCO
3
. Do đó, nếu quặng đồng oxít chứa nhiều sắt
và đá vôi thì phải dùng dung môi amôn chứ không dùng axít sunfuric để hòa tách.
+ Các phương pháp kết tủa đồng từ dung dịch:
- Điện phân với cực dương không hoà tan, người ta dùng bể điện phân với cực
dương là hợp kim Pb – Sb hay Pb – Ca; cực âm là lá đồng sạch; dung dịch điện phân là
CuSO4 và H
2
SO
4
.
Phản ứng cơ bản của phương pháp:
CuSO
4
+ H
2
O = Cu + H
2
SO

4
+ 0.5O
2

Khi trong dung dịch có chứa ion sắt III sẽ tham gia phóng điện để trở thành ion sắt
II , gây mất mát điện năng. Do đó trước khi điện phân người ta phải khử hết ion sắt III.
Tuy nhiên, do bản than phản ứng điện phân luôn tạo ra oxi tự do, vì vậy nó luôn oxi hóa
sắt II và các kim loại tạp, kéo theo các phản ứng phóng điện gây tổn thất điện năng. Đó là
lí do tại sao hiệu suất Faraday của phương pháp điện phân với cực dương không tan luôn
luôn nhỏ hơn so với phương pháp điện phân với cực dương hòa tan.
Phương pháp này chỉ thích hợp cho dung dịch chứa ≥ 15g Cu/l . nếu nồng độ thấp
hơn thì H
+
sẽ cùng phóng điện. Mặt khác, trong quá trình điện phân, các tạp chất sẽ tích
lũy trong dung dịch. Vì vậy phải theo chu kỳ nhất định, lấy ra một phần dung dịch điện
phân, đem đi khử các tạp chất. Nói cách khác phương pháp điện phân kết tủa đồng này
không thích hợp với dung dịch quá nghèo đồng và bị bẩn do các tạp chất khác.
- Xi măng hoá bằng bột Fe (Phương pháp nội điện phân) :Nguyên tắc của nó là dùng
một kim lọai âm hơn đồng, đẩy đồng ra khỏi gốc sunfat và kết tủa ở dạng đồng kim lọai.
Phản ứng cơ bản của phương pháp này là:
Phản ứng : CuSO
4
+ Fe = Cu + FeSO
4
15
Áp dụng đối với dung dịch có hàm lượng đồng thấp (hàm lượng đồng có khi chỉ xấp xỉ
0.1 g Cu/l)
Trong dung dịch dùng để ximăng hóa không được chứa Fe
2
(SO4)

3
bởi vì nó sẽ gây
ra phản ứng phụ có hại đối với sắt và đồng đã kết tủa, làm tốn thêm bột sắt và gây ra sự
hòa tan lại đồng đã kết tủa.
- Phương pháp chưng cất kết tủa đồng:
Phương pháp này được dùng kết tủa đồng từ dung dịch amôn. Khi đun nóng dung dịch
đồng thì muối phức đồng amôn bị phân hủy theo phản ứng sau:
2Cu
2
(NH
3
)
4
CO
3
+O
2
=4CuO+8NH
3
+2CO
2
Cu
2
(NH
3
)
4
CO
3
= CuO+4NH

3
+CO
2
NH
3
và CO
2
bốc hơi lên, lại được tá sinh thành NH
4
OH và Cu
2
(NH
3
)
4
CO
3
đem đi hòa tách
quặng đồng. CuO rất sạch sẽ được hoàn nguyên bằng than cho đồng kim lọai rất sạch.
b. Thiết bị và công nghệ thuỷ luyện đồng.
 Đối với quá trình hoà tách bằng axit:
Thiết bị hoà tách phổ biến là các thùng hoà tách theo phương pháp thấm tràn qua
lớp liệu dạng cục nhỏ, cỡ hạt trung bình 10 mm. Thùng hòa tách này có dạng hình chữ
nhật, dài 30-50 m, rộng 20-35, cao 5-6 m. Nó được làm bằng bê tông cốt thép, bên trong
lót gạch chịu axit .
Dung dịch được tuần hòan từ dưới lên hoặc ngược lại .Thời gian hòa tách thường
kéo dài 10-15 ngày .Có thề tiến hành hòa tách liên tục hay gián đọan. Để hòa tách liên
tục, người ta đặt một dãy các thùng nối tiếp nhau. Dung dịch và quặng được tuần hòan
theo nguyên tắc ngược dòng: dung môi tươi, mạnh tiếp xúc với bã quặng nghèo đồng ở
thùng cuối cùng. Còn dung dịch dịch giàu đồng từ thùng cuối lại tiếp xúc với quặng tươi.

 Đối với quá trình hoà tách bằng amôn:
Thiết bị hoà tách thường là các thùng thép ,tiết diện tròn, có nắp đậy kín. Phương
pháp hoà tách cũng theo phương pháp thấm tràn tương tự như hòa tách bằng axít. Mỗi
thùng chứa được gần 500 tấn quặng. kích thước thùng : đường kính 9-16 m, cao 4.5 -5 m
 Đối với quá trình xi măng hoá kết tủa đồng:
Thiết bị dùng có hiệu quả hơn cả là máng xi măng hoá làm bằng gỗ hay bê tông.
Máng có chiều rộng 0.3-3 m ;sâu 0.5-1.5 m ;chiều dài phụ thuộc vào lượng dd ,nồng độ
dd và họat độ của bột sắt .Dọc theo chiều dài của máng có đáy giả dạng lưới, trên đó đổ
16
bột sắt hay phôi vụn. Dung dịch được thấm qua đáy giả từ dưới lên.
Người ta còn dùng bể xi măng hóa bằng gỗ hay xi măng, tiết diện hình chữ nhật;
rộng 1.5-3 m ; dài 3-5 m ; sâu 0.8-2.5 m.
Cũng có thể dùng thùng xi măng hóa bằng gỗ , có máy khuấy, tiết diện tròn có
đường kính khỏang 7.5m, cao xấp xĩ 3m.
c. Các chỉ tiêu kinh tế, kĩ thuật :
 Hiệu suất thu hồi đồng;
Ở khâu hoà tách, nếu dùng dung môi axit hiệu suất đạt 85-95%.Đối với dung môi amôn
hiệu suất đạt 76-90%.
Khi kết tủa đồng bằng phương pháp điện phân với cực dương không hoà tan hiệu suất thu
hồi đồng cực âm là 99.95% .Còn nếu dùng phuơng pháp ximăng hóa thì hiệu suất thu hồi
đồng từ dung dịch chỉ đạt 70-95%.
Các tiêu hao chủ yếu.
 Tiêu hao dung môi:
Khi hòa tách bằng axít H
2
SO
4
và điện phân kết tủa đồng thì tiêu hao dung môi không lớn
hơn 0.5- 2 kg H
2

SO
4
cho 1kg đồng kim lọai (vì phần lớn H
2
SO
4
được tái sinh).
Khi hòa tách bằng dung môi amôn ,tiêu hao ammoniac trung bình dao đồng từ 0.15 – 0.25
kg NH
3
/tấn quặng.
 Tiêu hao hơi nước:
Khi hòa tách bằng dung môi amôn thì tiêu hao rất nhiều hơi nuớc ~ 20-45 kg hơi nước/tấn
quặng. Đặc biệt khi đó tiêu tốn nhiều hơi nước để phân hủy Cu
2
(NH
3
)
4
CO
3
: khoảng 500-
900 kg hơi nuớc cho 1m
3
dung dịch. Tiêu hao tổng cộng hơi nước là 100-750 kg/tấn
quặng.
 Tiêu hao điện năng:
Khi điện phân đồng với cực dương không hòa tan là 2000- 2500 Kwh/t. Cu cực âm với
hiệu suất dòng điện là 80-90%
 Tiêu hao sắt để kết tủa đồng khi thực hiện ximăng hóa là

1.5- 2.5kg Fe/kg Cu.
d. Phương hướng phát triển thuỷ luyện đồng
 Kết hợp thủy luyện với hỏa luyện đồng:
17
Nội dung của phương pháp này là thổi gió để oxi hóa quặng sufua Cu-Ni-Co trong dd
ammoniac ở nhiệt độ cao và áp suất cao, sau đó dùng H
2
hoàn nguyên ra bột đồng.
 Người ta đã thử nghiệm áp dụng công nghệ ôtôcla để hòa tách quặng đồng ở nhiệt
độ cao và áp suất cao. Phương pháp này cho phép xử lý tổng hợp quặng sufua đa kim
như Cu-Ni-Co ; Cu-Ni ; Cu-As.
 Áp dụng thiêu sunfat hoá và clorua hoá đối với tinh quặng. Điều đó cho phép hòa
tách bằng dung môi đơn giản là nước có pha thêm một ít H
2
SO
4
họăc HCl.
Cũng theo huớng tìm dung môi mới, người ta đã dùng axít nitric để hòa tách quặng đồng
sunfua với các phản ứng chính sau đây:
3CuS + 8HNO
3
= 8NO + 3CuSO
4
+ 4H
2
O
3CuFeS
2
+ 20 HNO
3

= 3Fe(SO
4
)NO
3
+ CuSO4 + 17NO + 10H
2
O
2FeS
2
+ 10HNO
3
= Fe
2
(SO4)
3
+ H
2
SO
4
+ 4 H
2
O + 10 NO
 Cùng với việc phát triển các sản phẩm hóa học, người ta đã bắt đầu nghiên cứu áp
dụng phương pháp trích li lỏng để thu hồi đồng từ các ding dịch rất loãng.
 Hoà tách bằng vi sinh vật: thành tựu của nghành vi sinh học đã phát hiện có một số
nhóm vi khuẩn tồn tại không cần chất hữc cơ. Chúng gây ra các phản ứng hòa tách các
hợp chất đồng sunfua khi có mặt oxi không khí, theo các cơ chế sau đây:
Đầu tiên chalcopyrit bị phân hóa do oxi của không khí:
CuFeS
2

+ 4O
2
= CuSO
4
+ FeSO
4
;
Sau đó nhờ vi sinh, ví dụ như nhóm thiobacillus ferrooxidans, làm xúc tác cho phản
ứng tạo ra ion sắt III:
2FeSO
4
+ H
2
SO
4
+ 0.5O
2
= Fe
2
(SO4)
3
+ H
2
O
Fe
2
(SO4)
3
sinh ra là tác nhân hòa tách đối với các sufua như Cu
2

S, FeS
2
, CuFeS
2

18
Sơ đồ nguyên lý của quá trình thủy luyện đồng.
4. Các phương pháp tinh luyện đồng
19
Thành phần hoá học của đồng thô thu được từ quặng và phế liệu.
Đồng thô Cu Fe Ni S Zn As Sb
Từ Quặng
Từ Phế liệu
98.6-99.3
97.5-98.2
0.01-0.09
<0.05
0.05-0.09
0.3-1
0.3-0.5
-
0.03-0.06
<0.5
0.01-0.1
-
0.01-0.1
<0.3
a. Hoả tinh luyện đồng:
Phương pháp này dựa trên cơ sở ái lực hóa học của các kim lọai tạp với oxi và các oxit
của các kim loại tạp không hòa tan trong đồng lỏng. Dưới tác dụng của chất oxihóa, tạo

thành xỉ nổi lên trên bề mặt đồng lỏng.
Quá trình hỏa tinh luyện gồm 2 giai đọan : oxi hóa và khử oxi.
Ở giai đọan oxihoa, tốc độ oxi hóa tỉ lệ với nồng độ các kim loại, vì vậy đồng bị oxi hóa
đầu tiên:
4Cu + O
2
= 2 Cu
2
O
CuO không tốn tại được lâu vì nó bị phân hủy thành Cu
2
O ở điều kiện tinh luyện. Cu
2
O
được hòa tan vào đồng lỏng. Nó làm nhiệm vụ oxi hóa các tạp chất theo phản ứng tổng
quát sau:
Me + Cu
2
O =MeO + 2 Cu +Q
Có thể xác định gần đúng thứ tự oxi hóa các kim lọai tạp dựa vào ái lực hóa học giảm dần
của chúng đối với oxi như sau:
Al, Si, Mn, Zn, Sn, Fe, Ni, As, Sb, Pb, Bi
20
Trong thực tế các tạp chất bị oxi hóa đồng thời nhưng với tốc độ khác nhau, phụ thuộc
vào ái lực với oxi, quan hệ nồng độ ,khả năng tạo xỉ, bay hơi, tốc độ của phản ứng oxi hóa
,…
Để khử các chất khí hòa tan trong đồng lỏng , người ta nhúng gỗ tươi hay tre, vầu tươi
vào khối đồng lỏng. sự bốc hơi nước mãnh liệt từ trong gỗ, tre tươi có tác dụng khuấy
trộn bể đồng lỏng, oxi hóa hết S, đuổi SO
2

và các khí khác (CO
2
, N
2
….) ra khỏi đồng
lỏng.
Sau giai đọan oxihóa, hàm lượng Cu
2
O trong đồng lỏng đạt giá trị bão hòa (10-12%). Vì
vậy phải tiếp tục khử oxi bằng sản phẩm chưng khô gỗ ,tre hoặc bằng các chất
Cacbonhidro, ví dụ bằng CH
4
4 Cu
2
O + CH
4
= CO
2
+ 2H
2
O + 8 Cu
Giai đọan khử oxi được tiến hành cho đến khi trong đồng lỏng chỉ còn 0.3 –0.5%
Cu
2
O.
Nếu dùng than củi hay các khí tự nhiên thì có thể cường hóa quá trình khử oxi.
Thiết bị đề hoả tinh luyện đồng là lò phản xạ, tương tự lò phản xạ tinh luyện tinh quặng
đồng, nhưng có kích thước nhỏ hơn. Dung tích nồi lò dao động từ 20 đến 400 tấn đồng
thô: nồi lò sâu 400-900 mm, dài khỏang 15m, rộng khoảng 5m.
Nhiệt độ lò khống chế khoảng 1130- 1150

o
C. Nhiên liệu cần chứa ít S để tránh
làm bẩn đồng bởi khí SO
2
.
Quá trình hỏa tinh luyện được tiến hành theo chu kì với thời gian một mẻ khoảng
24 giờ. Sau khi hỏa tinh luyện các kim lọai quý và các tạp chất hầu như còn nguyên trong
đồng thô. Đồng sạch sau khi hỏa tinh luyện có thành phần như sau (%): 99.3- 99.8 Cu ;
0.003-0.05 Bi ; 0.05-0.2Sb ; 0.05- 0.2As ; 0.05-0.1 Fe ; 0.05- 0.3 Pb ; 0.01 -0.02S ;0.1-
0.15 O
2
.
Do đó, để nâng cao độ sạch của đồng và cá kim lọai quý, đồng sạch sau khi hỏa
tinh luyện được đúc thành các tấm đồng cực dương để tiến hành điện phân tinh luyện tiếp
theo.
Các chỉ tiêu KTKT của hoả tinh luyện đồng
21
Nặng suất đơn vị lò phản xạ; 4.5-6 t/m
2
(đối với đồng thô rắn), 10-12t/m
2
(đối với
đồng thô lỏng)
Hiệu suất thu hồi đồng trực tiếp;97-98%
Lượng xỉ bã:4-5% lượng đồng sạch.
Tiêu hao nhiên liệu:10-15% Khối lượng đồng (Đồng thô ở thể rắn)
Tiêu hao gỗ hoặc tre tươi:3.5-5 kg/ t đồng sạch
b. Điện phân luyện đồng :
Sau hỏa tinh luyện đồng đỏ thu được có chứa 0.2-0.7% tạp chất và hầu như toàn bộ
kim loại quý có trong đồng thô. Để nâng cao độ sạch của đồng ( 99.95-99.9 %) và thu hồi

kim loại quý, đồng đỏ được đem đi điện phân tinh luyện.
Điện phân tinh luyện đồng là phương pháp điện phân với cực dương hòa tan. Nó
dựa trên cơ sở hòa tan điện hóa đồng từ cực dương và kết tủa lại đồng sạch ở cực âm
trong bể điện phân với dung dịch điện li là CuSO
4
và H
2
SO
4
Các tạp chất hoặc là không bị hòa tan từ cực dương (do điện thế phóng điện của
chúng dương hơn đồng), hoặc là tập trung trong dung dịch điện phân (do điện thế phóng
điện của chúng âm hơn đồng) .Kết quả là người ta thu được đồng cực âm có độ sạch cao
và bùn cực dương chứa các kim lọai quý hiếm.
Cực dương là đồng đỏ sau khi hỏa tinh luyện, thường có chiều dày 25-50 mm, cân
nặng 150-350 kg. Cực âm là lá đồng sạch có chiều dày 0.5-0.6 mm .Dung dịch điện phân
là hỗn hợp CuSO
4
và H
2
SO
4
.
Ở cực dương đồng hòa tan dung dịch chủ yếu ở dạng cation:
Cu
2+
: Cu -2e = Cu
2+

Các kim lọai quý như Zn, Ni, Pb, Sn, Sb, Bi cũng bị hòa tan vào dung dịch tương
ứng như đồng .

Các kim lọai quý như Au, Ag các tạp chất Cu
2
S, Cu
2
Se, Cu
2
Te không hòa tan vào dung
dịch mà lại hòa tan vào bùn ở cực dương.
Ở cực âm, ngược lại, cation Cu
2+
từ dung dịch phóng điện để thành đồng kim lọai,
bám lên cực âm:
Cu
2+
+ 2e = Cu
Các kim lọai tạp cùng hòa tan vào dung dịch với đồng, nhưng do điện thế phóng
điện âm hơn đồng nên không phóng điện kết tủa lên cực âm mà vẫn nằm lại trong dung
22
dịch. Vì vậy, trong quá trình điện phân, dung dịch bị bẩn do tích lũy tạp chất. Để tránh
tình trạng các tạp chất cùng phóng điện ở cực âm làm bẩn đồng cực âm, sau một thời gian
nhất định , cần lấy đi một phần dung dịch điện phân để khử chất tạp.
Để cải thiện bề mặt cực âm và chống đoản mạch, người ta cho vào dung dịch điện
phân các phụ gia như hồ dán , keo, dầu, bã xenlulozơ.
Bể điện phân có dạng hình hộp bằng gỗ, bên trong lót chì hay bằng betông cốt thép, bên
trong lót nhựa chịu axit.
Trong bể, người ta đặt từ 20 đến 40 cực dương. Số lượng cực âm lớn hơn cực
dương 1 cái và đặt song song với cực dương. Bể thường có chiều dài 3-3.5m ; rộng 1.2-
1.5m và sâu 1-1.2m.
Điện áp cần cho phân xưởng phụ thuộc vào số bể mắc nối tiếp nhau. Điện áp rơi
trên dây dẫn chiếm 10-16% của tổng điện áp. Trong thực tế, điện áp của phân xưởng điện

phân ít khi vượt quá 500 vôn. Điện áp này cung cấp do máy phát điện một chiều, hoặc
máy phát điện xoay chiều với chỉnh lưu công suât lớn.
Để khuấy trộn tốt dung dịch điện phân, người ta cho nó tuần hoàn qua các bể với
tốc độ 5-6h, dung dịch trong bể được đổi mới 1 lần.
Trong thao tác bể điện phân, cần hạn chế hiện tượng phân cực. Đó là sự giảm đáng kể
điện áp bể do tốc độ khuếch tán các ion trong dung dịch không theo kịp tốc độ hòa tan và
kết tủa đồng ở 2 cực.
Các chỉ tiêu KTKT của điện phân tinh luỵên đồng

Điện áp một bể: U= 0.3-0.4 v

Cường độ dòng điện của bể: I = 7000-15000 A

Hiệu suất dòng điện:η = 92-95 %

Mật độ dòng điện trung bình:170-250 A/m
2

Tỉ lệ phân bố đồng cực âm:98.51%, vào dung dịch 1.42%, vào bùn cực
dương:0.07%.Vàng được phân bố vào bùn cực dương là 99.6%.Bạc được phân bố vào
bùn cực dương là 98.4%
c. Phương hướng phát triển tinh luyện đồng:
i.Trong hoả luyện:
Dùng lò điện thực hiện giai đoạn hoàn nguyên, cho phép dễ dàng điều chỉnh nhiệt
độ và thành phần khí lò, tăng năng suất quá trình và giảm tiêu hao nhiên liệu.
23
Thay oxi của không khí bằng nước vì nó chứa nhiều oxi hơn không khí. Như vậy sẽ giảm
thời gian oxi hoá xuống 2 lần. Mặt khác, khi dùng hơi nước đồng sẽ không bị oxi hóa mà
các kim lọai khác bị oxi hóa trực tiếp.
Sản xuất đồng sạch không chứa oxi: Đồng ở cực âm sau điện phân tinh luyện vẫn

chứa không ít hơn 0.05% O
2
để tránh lẫn tạp chất khác và hòa tan các khí H
2
và SO
2
.Vì
vậy phải tổ chức chế tạo đông không chứa oxi theo các nguyên tắc sau:
 Dùng nguyên liệu ban đầu có độ sạch cao sau điện phân tinh luyện.
 Tiến hành khử oxi trong môi trường khí bảo vệ hoặc chân không, ví dụ trong lò
điện cảm ứng tần số thấp môi trường hoàn nguyên hoặc lò chân không cao tần.
 Hệ thống rót đúc sản phẩm phải kín và giữ môi trường khí bảo vệ hay chân không.
 Dùng chất khử oxi rất mạnh như P, và tốt nhất là Li.
ii.Trong điện phân tinh luyện:
Dùng mật độ dòng điện cao để tăng năng suất bể điện phân. Mật độ có thể tăng tới
500A/m
2
.Muốn tăng mật độ dòng thì phải giải quyết vấn đề tuần hoàn dd thật tốt. Để
hoàn thiện việc tuần hoàn dd, người ta đã tăng chiều dài của bể tới 11m dài và bố trí các
cực sao cho pháp tuyến của bế mặt các cực vuông góc với hướng chuyển động của dd
tuẩn hòan. Như vậy cho phép gạt bỏ các màng không tan trên bề mặt cực và bùn cực
dương bám vào bề mặt cực. Tốc độ tuần hòan cũng tăng lên tới 5-6 m
3
/h .
Nghiên cứu áp dụng các dung dịch điện phân mới, như dung dịch chứa CuCl
2
và HCl.
Dùng phương pháp điện phân trong đồng lỏng, để khử tốt các tạp á kim như S
2
, O

2
, Se, Te . Ở đây cực âm được làm bằng graphit, cực dương làm bằng ống graphit nhúng
vào lớp lỏng của muối BaCl
2
. Dung dịch điện phân là đồng lỏng. Khi điện phân các tạp
chất á kim kể trên chạy vế cực dương và được hòa tan giữ lại ở lớp BaCl
2
lỏng.
III. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHẾ CuSO
4
tinh thể.
1. Sơ lược về đồng sulfat
Đồng (II) sulfat CuSO
4
là chất bột màu trắng, hút mạnh hơi ẩm của không khí để tạo
thành hiđrat CuSO
4
.5H
2
O màu lam. Lợi dụng tính chất này, người ta dùng CuSO
4
khan để
phát hiện nước ở lẫn trong hợp chất hữu cơ.
Pentahiđrat CuSO
4
.5H
2
Olà những tinh thể tam tà màu xanh lam, trong đó ion Cu
2+
được

24

×