Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Vua Lê Thánh Tông Với Việc Học Của Sĩ Tử ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.14 KB, 5 trang )

Vua Lê Thánh Tông Với Việc Học Của Sĩ Tử

Hoàng đế Lê Thánh Tông (1442 - 1497) trị vì đất nước từ năm 1460 đến 1497.
Trong 37 năm ấy, xã hội Việt Nam đã đạt đến độ cực thịnh trong lịch sử phong
kiến Việt Nam. Ông vừa là bậc minh quân vừa là nhà văn hóa lớn, rất chú trọng
xây dựng nền giáo dục. Có thể nói, dưới thời Lê Thánh Tông, nên giáo dục đạt
được những thành tựu huy hoàng mà không một thời kỳ đại phong kiến nào của
Việt Nam sánh kịp. Ngay ở khu Thái học, phía trước và phía sau được dựng nhà
để làm nơi ở và đọc sách cho giám sinh (học sinh của trường) và tặng quảng sinh
(học trò lấy thêm các nơi về).
Bản thân nhà vua cũng cần mẫn học hành và chăm lo chính sự, đúng như lời nhà
thơ tự thuật:
Trống đời canh còn đọc sách
Chiêng xế bóng chửa thôi chầu.
Lê Thánh Tông thường mặc quần áo dân thường vi hành ra ngoại ô và thôn mạc để
hiểu đời sống của dân chúng. Nhà vua cũng vi hành tới khu trường Giám để xem
xét các cống sĩ học hành ra sao. Sau mỗi lần vi hành ở khu truờng Giám, nhà vua
lại có động tác tinh tế để khen ngợi một cống sĩ nào đó chăm học hoặc chê một
cống sĩ nào đó lười học. Trong dân chúng và cống sĩ, có nhiều giai thoại về Lê
Thánh Tông biểu lộ lòng tôn kính của họ đối với nhà vua anh minh này.
Tối giao thừa. Nhà vua vi hành ở khu nhà Giám. Thấy ở dãy nhà phía sau đỏ ngọn
đèn dầu, vua cùng người hầu bước tới. Một cống sĩ đang chăm chỉ đọc sách. Hẳn
anh ta là một tăng sinh ở xa, không về được, đánh trú ngụ lại đất kinh thành. Vua
đến gần, cống sĩ vẫn không biết, bèn hỏi:
- Sao anh không về ăn tết với gia đình?
Cống sĩ giật mình, ngẩng đầu lên:
- Thưa bác, nhà con ở xa lắm, con không về được.
- Thế anh không sắm gì để đón giao thừa à?
- Thưa bác, nhà con nghèo Vả lại con cũng đã quen sống đạm bạc
Nhà vua lặng lẽ quay gót.
Sắp đến lúc giao thừa. Người hầu mang đến cho cống sĩ hai chiếc bánh chưng xinh


xinh bằng hai bàn tay. Lúc đó cống sĩ mới biết "bác" lúc nãy hỏi chuyện mình là
nhà vua. Đúng lúc giao thừa, cống sĩ bóc bánh chưng ra ăn, cảm động quá: một
bánh chưng thật, còn "chiếc bánh chưng" kia gói bạc nén!
Một lần vi hành khác. Nhà vua thấy một cống sĩ chừng 50 tuổi chăm chú cúi đầu
trên trang vở. Nhà vua đứng im phía xa, thấy cống sĩ mê mải đọc sách, thỉnh
thoảng húp một ngụm cháo loãng. Trước lúc về, nhà vua đến gần:
- Cống sĩ húp cháo gì mà ngon thế?
- Thưa bác, con húp cháo hoa, nhà con hết muối rồi!
Nhà vua về một lát thì nội thị mang ra cho cống sĩ một "chĩnh muối" để cống sĩ ăn
với cháo thì mới có sức mà học khuya được.
Cống sĩ sung sướng mở nắp chĩnh ra, thất là bất ngờ không phải chĩnh muối mà
là đĩnh bạc!
Một lần vi hành khác. Thấy cống sĩ nọ đỏ đèn đến quá nửa đêm, nhưng không phải
để học, mà là đang mở hộp trầu, cùng ăn trầu đùa vui với vợ mới cưới.
Sáng hôm sau. Nhà vua cho họp mặt các cống sĩ trước cửa nhà Giám, biếu mỗi
người một hộp trầu nhỏ. Viên cống sĩ nọ nhận được hộp trầu giống hệt hộp trầu
của mình đêm qua vui đùa với vợ!
Thì ra nhà vua biết việc mình thức khuya để vui đùa với vợ chứ không phải để
học. Một lời chê thật ý nhị!
Nghe nói trong vùng kinh thành có một người múa gậy rất giỏi. Ông ta vung gậy
lên là gió nổi vù vù, cho nên người ta gọi là Quận Gió. Quận Gió chuyên sống
bằng nghề trèo tường, đào ngạch, ăn trộm. Nhưng không bao giờ ăn trộm nhà
nghèo, mà thường lấy của nhà giàu cứu giúp nhà nghèo và những người sống
lương thiện.
Đêm giao thừa, nhà vua vờ đóng vai anh học trò nghèo, đến gặp Quận Gió: "Tôi
học ở trường Giám, nhà nghèo quá, cuối năm không có một đồng xu để về quê.
Nhờ ông cứu giúp" Quận Gió hỏi: "Thế cậu có biết ở kinh thành nhà ai giàu, chỉ
cho tôi vào lấy trộm? Nhà cậu nghèo khổ mà chăm chỉ học hành như vậy, tôi phải
giúp cậu". Nhà vua chỉ Quận Gió một số nhà giàu, Quận Gió đều lắc đầu từ chối vì
những gia đình có của ăn của để không phải do làm ăn bất chính, mà do cần cù,

tằn tiện mà có "Cũng như cậu, nếu sau này cậu đậu đạt làm quan là do cậu sôi
kinh nấu sử, không ai nỡ lòng cướp đoạt gia sản của cậụ ".
Cuối cùng, Quận Gió nói: "A, viên quan coi kho bạc Nhà nước hay ăn trộm bạc
trong kho mang về nhà. Tôi sẽ lấy trộm bạc ở nhà hắn để giúp cậu". Nhà vua nửa
tin nửa nghĩ: mình đã cử một viên quan liêm khiết như vậy để giữ kho, lẽ nào hắn
lại ăn cắp?

Một lát sau, Quận Gió trở về, đặt vào tay nhà vua mấy thỏi bạc: "Học trò chăm chỉ
như cậu thì tôi phải giúp kỳ được". Nhà vua ngạc nhiên thấy trên thỏi bạc khắc
bốn chữ "Quốc khố chi bảo". Đích thị là viên quan kia ăn cắp của Nhà nước.
Sáng mồng một Tết, sau buổi khai triều, sau buổi khai triều, nhà vua cách chức
viên quan coi giữ kho bạc và phong cho Quận Gió tấm biển vàng đề ba chữ "Trộm
quân sử" do chính tay Vua viết.

×