Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tác dụng của tinh dầu tràm trà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.23 KB, 17 trang )

CHUYÊN ĐỀ:
TÁC DỤNG SINH HỌC CỦA TINH DẦU TRÀM TRÀ VÀ TRÀM CAJETPUT
1. Mở đầu
Các loài tràm hiện có ở Việt Nam là Tràm cajuput (Melaleuca cajuputi), Tràm
năm gân (M. quinquenervia) và Tràm trà (M. alternifolia), trong đó Tràm cajuput là
loài nguyên sản ở Việt Nam, Tràm năm gân và Tràm trà là những loài mới nhập trong
những năm gần đây và có nhiều triển vọng sản xuất tinh dầu. Đây cũng là những loài
tràm được nhiều nước gây trồng và có tinh dầu được bán nhiều nhất trên thế giới.
Tràm trà (Melaleuca alternifolia Maiden & E. Betche ex Cheel) là một trong
những loài cây chính để sản xuất tinh dầu ở Australia và một số nước trên thế giới, là
loài cây gỗ nhỏ đến gỗ nhỡ, có phân bố tự nhiên chủ yếu tại 28o54' đến 31o23' vĩ độ
Nam ở bang New South Wales (NSW) của Australia. Tinh dầu tràm trà được sử dụng
rộng rãi trong sản xuất mỹ phẩm, kem đánh răng, sữa tắm, dầu gội đầu, nước súc
miệng, trị một số bệnh ngoài da, chữa viêm xoang, bảo quản lương thực, v.v. Tinh
dầu tràm trà gồm hai nhóm chính là (i). Nhóm giàu là terpinen-4-ol , (ii). Nhóm giàu
1,8-cineole. Hiện nay ở Australia mới sản xuất tinh dầu giàu terpinen-4-ol, còn ở
nước ta đang nghiên cứu chọn giống theo cả hai hướng là giàu terpinen-4-ol và giàu
1,8-cineole (có thể đạt tỷ lệ 72-74%).
Tràm năm gân (M. quinquenervia (Cav.). S.T. Blacke) là loài cây gỗ nhỡ, có
phân bố tự nhiên ở vĩ độ 8o21' đến 33o52' Nam, tại Papua New Guinea, đến ven biển
Australia. Đây là loài được nhập vào nước ta từ đầu những năm 1990, có sinh trưởng
nhanh hơn các xuất xư Tràm cajuput của ta (Lê Đình Khả và cs. 2003), đã bước đầu
được chọn giống theo hướng giàu 1,8-cineole (Phùng Cầm Thạch và cs., 2000). Hiện
đang được trồng khảo nghiệm tại Thạnh Hóa (Long An), Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế)
và Ba Vì (Hà Nội) và đã chọn được một số giống có hàm lượng tinh dầu 1,4-1,8%
(gấp đôi Tràm gió của ta), có tỷ lệ 1,8-cineole cao hơn 65% (trong khi Tràm gió của
ta chỉ có tỷ lệ 1,8-cineole thường chỉ 15-50%, ít khi đạt 50-60%).
Tràm cajuput (M. cajuputi Powell) là loài cây bụi nhỏ, cây bụi và cây gỗ nhỡ,
có phân bố tự nhiên ở nhiều vùng ven biển đến các tỉnh vùng trung du như Thái
Nguyên, Vĩnh Phúc (Nguyễn Việt Cường và cs. 2008). Đây cũng là một trong những
loài được dùng để sản xuất tinh dầu giàu 1,8-cineole. Tuy vây, các nghiên cứu gần


đây cho thấy ở Việt Nam loài này cũng gồm hai nhóm là: (i). Nhóm giàu 1,8-cineole
là Tràm gió (M. cajuputi subsp. cajuputi) tỷ lệ 1,8-cineole có thể 30-70%), có phân
bố ở Việt Nam, Indonesia. (ii).Nhóm Tràm cừ (M. cajuputi subsp. cumingiana) tỷ lệ
1,8-cineole chi ở dạng vết đến 0,7%, có phân bố ở Việt Nam và Thái Land (Brophy
and Doran, 1996).
Ở nước ta Tràm trà được nhập từ Australia năm 1986 tại Trạm Dược liệu Văn
Điển. Sau này, Tràm trà được trồng thử tại Trung tâm giống Nông lâm nghiệp Phú
Yên và tại Trạm thí nghiệm Thạnh Hóa (Long An) của Phân viện lâm nghiệp miền
Nam. Từ 2005 đến nay, Viện Cải thiện giống và Phát triển lâm sản đã tiến hành
nghiên cứu chọn giống Tràm trà có hàm lượng tinh dầu cao để lấy tinh dầu theo cả 2
hướng giàu terpinel-4-ol lẫn giàu 1,8-cineole. Đánh giá hàm lượng tinh dầu từ khảo
nghiệm xuất xứ Tràm trà, Tràm năm gân (Melaleuca quinquenervia) và Tràm cajuput
(M. cajuputi) trong giai đoạn 2005-2008 tại Ba Vì, cũng như các khảo nghiệm giống
đến năm 2011 đã thấy Tràm trà tuy có sinh trưởng chậm, trên đất đồi, song sinh
trưởng nhanh trên đất có độ phì cao, có hàm lượng tinh dầu cao (loại giàu 1,8-cieole
là 2,25-3,28%; các dòng vô tính có thể đạt 3,87-3,96% với tỷ lệ 1,8-cineole 74,26-
78,17%; loại giàu terpinen-4-ol có hàm lượng tinh dầu 2,08-2,39% với tỷ lệ terpinen-
4-ol 42,2-51,83% (Lê Đình Khả và cs. 2011); Tràm năm gân có tỷ lệ tinh dầu 0,42-
1,86%,với tỷ lệ 1,8-cineole của các giống được chọn đều hơn 65%, một số dòng vô
tính có thể đạt 73,82%; Tràm gió cajuput của ta là nhóm cây có sinh trưởng chậm lại
có hàm lượng tinh dầu chỉ ở mức 0,14-0,95% với tỷ lệ 1,8-cineole 15-60% (Lê Đình
Khả và cs. 2008).
Tinh dầu tràm gồm hàng chục các hợp chất khác nhau, trong đó có hai nhóm
chính là nhóm giàu terpinen-4-ol được gọi là tinh dầu tràm trà (tea tree oil), và nhóm
giàu cineole được gọi là tinh dầu cajeput (cajeput oil), tên gọi chung cho các loại tinh
dầu giàu 1,8-cineole được sản xuất từ các loài tràm như M. cajuput, M. quinquenervia
và M. alternifolia (Khan et al. 2010). Ngoài ra, tinh dầu Tràm năm gân được sản xuất
từ Papua New Guinea còn có tên Niaoli oil (loại tinh dầu đang được sản xuất nhiều ở
Madagasca, có giá bán cao gần gấp đôi tinh dầu cajeput sản xuất từ Tràm cajeput), đôi
khi Niaoli oil cũng là tên goi cho loại tinh dầu giàu nerolidol.

Để có cái nhìn đầy đủ về giá trị sử dụng của các loại tinh dầu tràm, chuyên đề này
giới thiệu tác dụng sinh học của 2 nhóm tinh dầu chính là giàu terpinen-4-ol và giàu
1,8-cineole
Hai nhóm tinh dầu giàu 1,8-cineole và giàu terpinen-4-ol đều được chưng cất
theo phương pháp lôi cuốn hơi nước (Deutscher Arzneimittel-Codex, 1996, AS 2782–
1997, ISO 4730-1996).
2. Tinh dầu tràm và tác dụng sinh học của tinh dầu tràm
2.1. Một số đặc điểm của tinh dầu tràm trà và tràm cajuput
2.2.1. Tính chất hóa lý (cho cả 2 loại tinh dầu)
Mùi đặc trưng. Chỉ số khúc xạ: 1,475-1,482. Độ quay cực: +5° đến +15°. Khối
lượng riêng : 885-906 kg/m3. Chỉ số khúc xạ: 1.475-1.482. Nhiệt độ sôi: xấp xỉ
176°C. Độ hòa tan trong cồn: hòa tan trong hai lần thể tích của ethanol 85% tại 20°C
(Deutscher Arzneimittel-Codex, Suppl. 8. Stuttgart, Govi-Verlag, 1996, AS 2782,
1997, ISO 4730, 1996)
2.2.2. Thành phần hóa học (cho cả hai loại tinh dầu)
- Tinh dầu tràm trà
Thành phần hóa học của tinh dầu tràm trà bao gồm các terpene hydrocarbon,
chủ yếu là monoterpene, sesquiterpene và các dẫn chất alcol của chúng. Brophy và cs.
đã khảo sát trên 800 mẫu tinh dầu tràm trà bằng sắc ký khí khối phổ cho thấy có gần
100 thành phần ở các tỷ lệ khác nhau (Brophy JJ et al. 1989). Thành phần chủ yếu của
tinh dầu là terpinen-4-ol (29-45%), γ-terpinene (10-28%), α-terpinene (2,7-13,0%) và
1,8-cineole (4,5-16,5%). Monoterpene (1-5%) bao gồm α-pinen, limonene, p-cymene
và terpinolene (Brophy JJ et al. 1989; Guenther E.1968; Southwell I et al. 1999;
Swords G et al. 1978; . Verghese et al. 1996).
Terpinen-4-ol
Tiêu chuẩn tinh dầu tràm trà của Australia quy định hàm lượng terpinen-4-ol
không ít hơn 30% (hiện nay có giống đã đat hơn 43% terpinen-4-ol), 1,8-cineole
không quá 15% (AS 2782, 1997), limonene không quá 1,5% (ISO 4770-2004). Tinh
dầu phải có không ít hơn 3,5% sabine, 1-6% α-terpinene; 10-28% γ-terpinene; 0,5-
12,0% p-cymene và 1,5- 8,0% α-terpineol (Deutscher Arzneimittel-Codex, Suppl. 8.

Stuttgart, Govi-Verlag, 1996, AS 2782, 1997, ISO 4730, 1996).
- Tinh dầu tràm cajuput
Thành phần hóa học của tinh dầu cajuput bao gồm hydrocarbons, alcohols,
aldehydes, ketones, carboxylic acid, ether và ester.
Thành phần hóa học chính là các monoterpen trong đó chủ yếu là 1,8-cineole
(eucalyptol) so với hàm lượng các chất trong tinh dầu.
Tùy thuộc vào các phân loài và đặc điểm địa lý của vùng trồng mà có thành
phần hóa học khác nhau giữa 3 phân loài là M. cajuputi subsp cajuputi; M. cajuputi
subsp. cumingiana (Turczaninow) Barlow và M. cajuputi subsp. platyphylla Barlow
(Ekundayo et al. 1987).
Tinh dầu tràm thương mại chủ yếu từ subsp cajuputi luôn có chứa một lượng
đáng kể 1,8-cineole (3-60%), sesquiterpene alcohols globulol (vết–9%), viridiflorol
(vết–16%) và spathulenol (vết–30% spathulenol (vết -30%). Các hợp chất khác như
limonene (vết –5%), ß-caryophyllene (vết–4%), humulene (vết –2%), viridiflorene
(0.5–9%), α-terpineol (1–8%), a- and ß-selinene (0–3%) và caryophyllene oxide (vết–
7%).Trong tinh dầu loại này không xuất hiện ete thơm. Hàm lượng tinh dầu chiếm từ
0.4% đến 1.2% trọng lượng tươi
Tinh dầu của subsp. cumingiana có sự biến đổi cao về tính chất . Các
thành phần chính được công bố trong tinh dầu trồng ở Indonesia, Malaysia, Thái Lan
và Việt Nam là (không có hoặc hàm lượng 1 ,8-cineole thấp) bao gồm γ-terpinene (0-
19%), terpinolene (0-22%), các hydrocarbon α-pinen (1-10%), α-thujene (0-8%), α-
phellandrene (vết -2%), α-terpinene (0-3%), limonene (vết -3%) và p-cymeme (0 -
12%) cũng như ether 1,8-cineole (0-6%). Monoterpenes oxy hóa gồm terpinen-4-ol
(0-6%) và α-tecpineol (vết-3%). Sesquiterpene chính phát hiện trong dầu là α và γ-
eudesmol (0-2%), caryophyllene oxit (0-7%), α, ß-selinene (0 - 4%), viridiflorene (0-
3%), humulene (4-14%), aromadendrene (0-5%) và beta-caryophyllene
(7-44%). Chỉ có một lượng nhỏ (2%) ete thơm cajeputol trong dầu
từ Thái Lan và Việt Nam nhưng trong dầu từ Kalimantan, Indonesia và Malaysia tỷ lệ
lớn hơn nhiều (18%). Sản lượng dầu khoảng từ 0,3% đến 0,5% (w / w%, trọng lượng
tươi). Hai báo cáo riêng biệt của các thành phần của dầu tràm từ tỉnh Long An của

Việt Nam (Todorova et Ognyanov. 1988; Motl et al 1990) cho thấy dầu thương mại
điển hình với 1,8 - cineole (41-48%) cùng với số lượng nhỏ hơn của α-tecpineol và
thành phần khác chủ yếu là monoterpenoid
Trong tinh dầu M. cajuputi subsp. platyphylla bao gồm hai loại: Loại một
chứa α-pinene (34–73%), 1,8-cineole (0.2–3%), γ-terpinene (vết–2%), p-cymene
(vết–1%), terpinolene (vết–1%), ß-caryophyllene (2–14%), aromadendrene (1–9%),
humulene (1–7%), viridiflorene (trace–3%), caryophyllene oxide (vết–2%), globulol
(vết–6%), viridiflorol (vết–2%), spathulenol (vết–3%) và không có dầu cajeputol. Sản
lượng dầu loại này 0.1–0.4% (w/w%, trọng lượng tươi). Loại thứ hai được công bố
gần đây trên trên trang web Papua New Guinea (Brophy and Doran 1997), có chứa ß-
triketone, platyphyllol (21–80%), và cajeputol (0.6–51%). Sản lượng của tinh dầu là
0.2% to 0.6% (w/w%, trọng lượng tươi).
2.2. Tác dụng sinh học của tinh dầu giàu terpinen-4-ol (tinh dầu Tràm trà)
2.2.1. Tác dụng kháng khuẩn
Tác dụng kháng khuẩn là tác dụng đáng chú ý nhất của tinh dầu tràm trà. Tinh
dầu tràm trà ức chế sự phát triển của Trichophyton mentagrophytes, Trichophyton
rubrum, Microsporum canis, Malassezia furfur, Cryptococcus neoformans,
Pityrospermum ovale và Trichosporon cutaneum với nồng độ ức chế tối thiểu (MIC)
là 1,1-2,2mg/ml) (Concha J.M. et al. 1998; Hammer KA et al. 1998; Nenoff P et al.
1996; Viollon C et al. 1994; Williams LR et al.1997). Ngoài ra, khi thử nghiệm trên
các vi khuẩn kháng kháng sinh như Escherichia coli, Enterococcus faecium kháng
vancomycin và Staphylococcus aureus kháng metacillin, tinh dầu tràm trà cũng thể
hiện tác dụng ức chế đáng chú ý (Nelson RRS.1997).
Một số thành phần hóa học có trong tinh dầu như linalool, terpinen-4-ol, α-
tecpineol, α-terpinene, terpinolene và 1,8-cineole, ức chế sự phát triển (in vitro) của
nhiều loại vi sinh vật, bao gồm cả Candida albicans, Escherichia coli và
Staphylococcus aureus (MIC 0,06-0,50% v/v) (Carson C.F et al. 1995).
Thử nghiệm trên 32 chủng Propionibacterium acnes, tinh dầu tràm trà nhạy
cảm với tất cả các chủng với MIC là 0,25% cho năm dòng và 0,50% cho các dòng
khác (Carson C.F. et al. 1994)

Tinh dầu tràm trà có tác dụng kháng khuẩn mạnh đối với Staphylococcus
aureus (DMST 8840) (MIC 0,064-0,512 mg/ml; MBC 0,128-0,512 mg/ml), Vibrio
cholerae (DMST 15778) và Bacillus cereus (TISTR 687) (Udomlak Sukatta et
al. 2011)
Bảng 1. Số liệu về tác dụng kháng khuẩn của tinh dầu tràm trà (Carson C.F et al.
2006)
Loại vi khuẩn
% (vol/vol)
MIC MBC
Acinetobacter baumannii 1 1
Actinomyces viscosus 0,6 >0,6
Actinomyces spp. 1 1
Bacillus cereus 0,3
Bacteroides spp. 0,06-0,5 0,06-0,12
Corynebacterium sp. 0,2-2 2
Enterococcus faecalis 0,5->8 >8
E. faecium (vancomycin resistant) 0,5-1 0,5-1
Escherichia coli 0,08-2 0,25-4
Fusobacterium nucleatum 0,6->0,6 0,25
Klebsiella pneumoniae 0,25-0,3 0,25
Lactobacillus spp. 1-2 2
Micrococcus luteus 0,06-0,5 0,25-6
Peptostreptococcus anaerobius 0,2-0,25 0,03->0,6
Porphyromonas endodentalis 0,025-0,1 0,025-0,1
P. gingivalis 0,11-0,25 0,13->0,6
Prevotella spp. 0,03-0,25 0,03
Prevotella intermedia 0,003-0,1 0,003-0,1
Propionibacterium acnes 0,05-0,63 0,5
Proteus vulgaris 0,08-2 4
Pseudomonas aeruginosa 1-8 2->8

Staphylococcus aureus 0,5-1,25 1-2
S. aureus (methicillin resistant) 0,04-0,35 0,5
Loại vi khuẩn
% (vol/vol)
MIC MBC
S. epidermidis 0,45-1,25 4
S. hominis 0,5 4
Streptococcus pyogenes 0,12-2 0,25-4
Veillonella spp. 0,016-1 0,03-1
MIC: nồng độ ức chế tối thiểu; MBC: nồng độ diệt khuẩn tối thiểu
2.2.2. Tác dụng kháng nấm
Tinh dầu tràm trà được chứng minh có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của
nấm và ảnh hưởng đến quá trình hình thành bào tử. Theo đó tinh dầu tràm trà có tác
dụng kháng Candida albicans, các men, nấm trên da và các nấm sợi khác. Mặc dù
phương pháp thử nghiệm khác nhau, nồng độ ức chế tối thiểu thường dao động từ
0,03 và 0,5%, và nồng độ diệt nấm thường dao động trong khoảng từ 0,12 đến 2%.
Tinh dầu tràm trà cũng ức chế sự phát triển (in vitro) của một loạt các loại
Streptomyces (MIC 0,04-0,50%) (Carson C.F et al. 1995; Carson C.F et al. 1996 ;
Carson C.F et al. 1995 , Chan C.H et al. 1998)
Tinh dầu tràm trà chưng cất từ cây di thực vào Thái Lan cũng có tác dụng
kháng nấm cao đối với Chaetomium globosum (TISTR 3093) và ức chế một phần sự
phát triển của Curvularia lunata (TISTR 3289), Aspergillus flavus (TISTR 3366),
Aspergillus niger (TISTR 3245) và Penicillium sp. (TISTR 3046) (Udomlak
Sukatta et al. 2011)
Bảng 2. Số liệu về tác dụng kháng nấm của tinh dầu tràm trà (Carson C.F et al. 2006)
Loại nấm
% (vol/vol)
MIC MFC
Alternaria spp. 0,016-0,12 0,06-2
Aspergillus flavus 0,31-0,7 2-4

A. fumigatus 0,06->2 1-2
A. niger 0,016-0,4 2-8
Blastoschizomyces capitatus 0,25
Candida albicans 0,06-8 0,12-1
C. glabrata 0,03-8 0,12-0,5
C. parapsilosis 0,03-0,5 0,12-0,5
C. tropicalis 0,12-2 0,25-0,5
Cladosporium spp. 0,008-0,12 0,12-4
Cryptococcus neoformans 0,015-0,06
Epidermophyton flocossum 0,008-0,7 0,12-0,25
Fusarium spp. 0,008-0,25 0,25-2
Malassezia furfur 0,03-0,12 0,5-1,0
M. sympodialis 0,016-0,12 0,06-0,12
Microsporum canis 0,03-0,5 0,25-0,5
M. gypseum 0,016-0,25 0,25-0,5
Loại nấm
% (vol/vol)
MIC MFC
Penicillium spp. 0,03-0,06 0,5-2
Rhodotorula rubra 0,06 0,5
Saccharomyces cerevisiae 0,25 0,5
Trichophyton mentagrophytes 0,11-0,44 0,25-0,5
T. rubrum 0,03-0,6 0,25-1
T. tonsurans 0,004-0,016 0,12-0,5
Trichosporon spp. 0,12-0,22 0,12
MIC: nồng độ ức chế tối thiểu; MFC: nồng độ diệt nấm tối thiểu
2.2.3. Tác dụng kháng virus
Tinh dầu tràm trà có khả năng chống lại virus khảm thuốc lá, virus herpes
simplex (HSV). Ảnh hưởng của tinh dầu tràm trên HSV đã được Schnitzler và cs.
nghiên cứu bằng cách ủ virus với các nồng độ tinh dầu khác nhau và dùng các virus

đã được xử lý này để gây nhiễm tế bào. Sau 4 ngày, đếm và so sánh số lượng mảng
bám hình thành ở mẫu thử so với mẫu đối chứng. Theo đó, nồng độ tinh dầu ức chế
50% sự hình thành mảng bám là 0,0009% cho HSV type 1 (HSV-1) và 0,0008% cho
HSV-2. Ngoài ra, dùng tinh dầu tràm trà ở các giai đoạn khác nhau trong chu trình sao
chép virus, tinh dầu đã được chứng minh là có ảnh hưởng lớn nhất trên virus tự do
(trước khi lây nhiễm sang tế bào), mặc dù khi dùng trong giai đoạn bám hút cũng thấy
làm giảm nhẹ sự hình thành mảng bám (Schnitzler et al. 2001). Một nghiên cứu khác
đánh giá hoạt tính chống HSV-1 trong tế bào Vero của 12 loại tinh dầu, trong đó có
tinh dầu tràm trà. Một lần nữa, tinh dầu tràm trà cho thấy có hoạt tính kháng virus
mạnh nhất trên virus tự do, ức chế hoàn toàn sự hình thành mảng bám với 1% tinh
dầu và làm giảm hình thành mảng bám khoảng 10% với 0,1% tinh dầu (Minami et al.
2003).
2.2.4. Tác dụng chống nguyên sinh bào
Tinh dầu tràm trà có tác dụng kháng nguyên sinh bào, làm giảm 50% sự tăng
trưởng của Leishmania major và Trypanosoma brucei tương ứng ở nồng độ 403
mg/ml và 0,5 mg/ml. Terpinen-4-ol được chứng minh là thành phần chính gây ra tác
dụng này. Trong một nghiên cứu khác, ở nồng độ 300 mg/ml, tinh dầu tràm trà có khả
năng diệt tất cả các tế bào Trichomonas vaginalis (Viollon et al. 1996)
2.2.5. Tác dụng chống viêm
Tinh dầu tràm trà có ảnh hưởng đến một loạt các đáp ứng miễn dịch cả in vitro
và in vivo. Các thành phần tan trong nước của tinh dầu tràm trà có thể ức chế khoảng
50% sự sản sinh các chất trung gian của quá trình viêm gây bởi lipopolysaccharid như
TNF-α, IL-1β và IL-10 ở tế bào bạch cầu đơn nhân máu ngoại vi người và khoảng
30% prostaglandin E2 sau 40 giờ. Trong số các thành phần chính của tinh dầu tràm trà
là terpinen-4-ol, α-tecpineol, và 1,8-cineol, chỉ có terpinen-4-ol có thể làm giảm sự
sản xuất TNF-α, IL-1β, IL-8, IL-10 và prostaglandin E2 gây bởi lipopolysaccharid
[36]. Phần tan trong nước của tinh dầu tràm trà là terpinen-4-ol và α-tecpineol còn ức
chế sự sản sinh superoxyd ở bạch cầu đơn nhân gây bởi kháng nguyên nhưng không
gây tác dụng đối với bạch cầu trung tính (Brand C. et al. 2001). Các nghiên cứu này
xác nhận cơ chế chống viêm của tinh dầu tràm trà in vivo, khi bôi tại chỗ đã làm giảm

phù ở pha ly tâm của đáp ứng mẫn cảm do tiếp xúc ở chuột nhắt trắng. Chính
terpinen-4-ol và α-tecpineol là thành phần chính gây ra tác dụng này (Brand C. et al.
2002).
2.2.6. Tác dụng chống ung thư
Năm 2010, Greay SJ và cộng sự đã thử nghiệm về khả năng chống ung thư (in
vitro) của tinh dầu tràm trà và terpinen-4-ol trên hai dòng tế bào ung thư chuột là u
trung biểu mô (AE17) và u hắc sắc tố (B16) trong thử nghiệm MTT đánh giá khả
năng sống sót của hai dòng tế bào ung thư trên và nguyên bào sợi. Kết quả nhận được
cho thấy tinh dầu tràm trà và terpinen-4-ol ức chế có ý nghĩa sự phát triển của hai
dòng tế bào ung thư chuột với liều gây độc tế bào của tinh dầu tràm trà và terpinen-4-
ol thấp hơn đáng kể so với nguyên bào sợi. Ngoài ra, tác dụng ức chế tăng sinh tế bào
ung thư của tinh dầu tràm trà và terpinen-4-ol có được là do nó gây ngừng chu kỳ tế
bào ở giai đoạn G1 (Greay S.J et al. 2010). Thử nghiệm bôi chế phẩm 10% tinh dầu
tràm trà trong DMSO 4 lần/ngày trong 10 ngày đã làm chậm phát triển u trung biểu
mô AE17 và u hắc sắc tố B16-F10 dưới da ở chuột nhắt trắng. Tác dụng chống khối u
của tinh dầu 10% đi kèm với kích ứng da như các chất hóa trị liệu bôi ngoài da khác,
nhưng chóng qua và hết hoàn toàn (Greay S.J et al. 2010).
Theo nghiên cứu mới nhất của Chieh-Shan Wu và cs., terpinen-4-ol còn có tác
dụng gây độc đối với các tế bào ung thư phổi tế bào lớn người trong một thử nghiệm
MTT, gây chết tế bào theo chương trình, làm tăng số lượng sub-G1 và kết dính
annexin-V, kích hoạt capase 9 và 3, phân cắt polyme poly(ADPribose) (PARP) ở tế
bào A549 và CL1-0. Terpinen-4-ol làm tăng tỷ lệ Bax/Bcl-2, giảm XIAP (một thành
viên của họ protein IAP) và survivin. Đáng chú ý, terpinen-4-ol có thể làm tăng mức
p53 trong tế bào A549 và CL1-0, điều này chứng minh rằng sự chết tế bào theo
chương trình do terpinen-4-ol là phụ thuộc p53 (Chieh-ShanWu et al. 2012).
2.2.7. Độc tính
Độc tính cấp đường uống của tinh dầu tràm trà đã được thử nghiệm trên chuột.
LD50 đường uống là 1,9g/kg thể trọng chuột nhắt trắng (liều gây chết từ 1,4-2,7 g/kg)
(Altman PM et al.1989; Carson CF et al. 1998; Seawright A. et al 1993). Các dấu
hiệu của ngộ độc nặng là tiêu chảy, suy hô hấp và hôn mê (Carson C.F et al. 1995;

Elliott C. et al. 1993; Hart et al. 2000; Seawright A. et al. 1993)
Khi dùng bôi trên da, liều gây chết trung bình (LD50) của tinh dầu tràm trà
trên da ở thỏ là > 5,0 mg/kg thể trọng. Liều 5,0mg/kg gây chết hai trong số 10 con thỏ
được thử nghiệm (Carson CF et al. 1998). Một vài trường hợp ngộ độc sau khi bôi
dầu với liều cao cho chó và mèo đã được công bố. Các triệu chứng bao gồm ức chế
thần kinh trung ương, yếu, không phối hợp và sang chấn cơ đã được phục hồi trong
vòng 2-3 ngày sau khi điều trị hỗ trợ (Villar D et al. 1994).
2.2.8. Nghiên cứu trên lâm sàng
Tinh dầu tràm được coi là một phương thuốc tốt để điều trị triệu chứng rối
loạn về da thông thường như mụn trứng cá, eczema; nhiễm trùng da như mụn rộp, các
vết thương, mụn cóc, bỏng, côn trùng cắn và bệnh nấm móng tay, bệnh nấm da bàn
chân, mồ hôi chân, nhọt, nấm onychia (onychomycosis) (Bassett I.B. et al. 1990;
Belaiche P. et al. 1988; Blackwell A.L et al. 1991; Buck et al. 1994; Carson C.F. et
al. 1994; De Groot A.C. et al. 1992; Feinblatt H.M et al. 1960; Pena EF. et al. 1962;
Tong et al. 1992; Walker M. et al. 1972). Các bệnh khác là cảm lạnh, đau họng,
nhiễm trùng nướu, bệnh trĩ , bệnh nhiễm trùng âm đạo, viêm âm đạo do Trichomonas
vaginalis, Candida albicans, viêm bàng quang và viêm cổ tử cung (Bassett I.B. et al.
1990; Brophy JJ et al. 1989; Guenther E. et al. 1968; document
WHO/FSF/FOS/97.7; Swords G et al. 1978; Verghese et al. 1996).
- Trị mụn trứng cá: Một trong những nghiên cứu lâm sàng đầu tiên đánh giá
hiệu quả của tinh dầu tràm trà 5% trong điều trị mụn trứng cá bằng cách so
sánh nó với benzoyl peroxyd 5%. Nghiên cứu cho thấy rằng cả hai phương
pháp điều trị đều làm giảm số lượng tổn thương viêm sau 3 tháng điều trị hàng
ngày (P <0,001), mặc dù ban đầu tác dụng của gel có chứa tinh dầu chậm hơn
so với gel có chứa benzoyl peroxyd nhưng bệnh nhân điều trị với gel có chứa
tinh dầu tràm trà làm giảm tỉ lệ ngứa và khô, ít tác dụng phụ hơn so với điều
trị bằng gel có chứa benzoyl peroxyd. (Bassett I.B. et al. 1990)
- - Trị ung nhọt: Hiệu quả trị mụn của tinh dầu được đánh giá qua một nghiên
cứu trên 35 bệnh nhân bị mụn nhọt ở nách, lưng, tai, mặt, cẳng tay, cổ và da
đầu. Các mụn nhọt sau khi được rửa sạch, bôi dầu hai hoặc ba lần mỗi ngày.

Trong nhóm được điều trị với tinh dầu, chỉ có một nhọt đòi hỏi phải mổ, trong
15 bệnh nhân, các mụn nhọt đã được chữa khỏi hoàn toàn sau 8 ngày điều trị
và có ba bệnh nhân tạm thời bị nhức vì mụn lên ngòi. Trong nhóm không
được điều trị có 5 trong số 10 bệnh nhân đòi hỏi phải mổ và chỗ bị mụn nhọt
xuất hiện lại sau 8 ngày (Feinblatt H.M et al. 1960).
- - Trị nấm và viêm da chân, móng: Một thử nghiệm lâm sàng đánh giá hiệu quả
của một loại kem có chứa hoặc 10% tinh dầu tràm trà, tolnaftate 1% hoặc giả
dược trên 104 bệnh nhân bị bệnh nấm da bàn chân do Trichophyton rubrum,
T. mentagrophytes và Epidermophyton floccosum. Sau khi sử dụng kem hai
lần mỗi ngày trong 4 tuần, 30% bệnh nhân được điều trị bằng dầu, 85% bệnh
nhân được điều trị bằng tolnaftate và 21% bệnh nhân được điều trị bằng giả
dược cho kết quả âm tính (P <0,001). Cả hai nhóm điều trị bằng dầu và nhóm
tolnaftate đã cải thiện đáng kể các triệu chứng lâm sàng của viêm, lan rộng,
ngứa và cảm giác nóng rát so với nhóm dùng giả dược (P <0,001) (Tong et al.
1992). Một nghiên cứu khác đánh giá hiệu quả của ba sản phẩm trong điều trị
60 bệnh nhân với bệnh nấm da bàn chân do Trichophyton rubrum, T.
mentagrophytes, Epidermophyton floccosum cũng như các bệnh khác như ra
mồ hôi chân, viêm chai chân , sưng tấy, vết nứt và nấm móng chân. Tám bệnh
nhân được điều trị với 100% tinh dầu, 40% bệnh nhân được điều trị bằng nhũ
dịch 40% tinh dầu trong isopropyl 13% và 12% đã được điều trị với cao thuốc
mỡ có chứa 8% tinh dầu, hai lần mỗi ngày trong 3 tuần đến 4 năm. Dầu 100%
được đánh giá là hiệu quả trong điều trị viêm móng chân, nhũ dịch 40% làm
giảm các triệu chứng mùi mồ hôi chân, viêm chai chân và sưng tấy, thuốc mỡ
8% có hiệu quả trong điều trị triệu chứng của bệnh nấm da bàn chân do T.
mentagrophytes và Epidermophyton floccosum, nhưng ít hiệu quả đối với T.
rubrum (Walker M. et al. 1972).
- Một thử nghiệm đánh giá hiệu quả của dầu tràm trà 100% hoặc clotrimazole
1% trong điều trị 117 bệnh nhân bị viêm vùng dưới móng chân. Các bệnh
nhân được sử dụng hai lần mỗi ngày trong 6 tháng và đánh giá lâm sàng ở các
tháng 0, 1, 3 và 6. Sau 3 tháng, khoảng 50% bệnh nhân mỗi nhóm đều có tiến

triển. Sau 6 tháng, đánh giá lâm sàng cho thấy mức độ khỏi một phần hoặc
hoàn toàn trong khoảng 60% bệnh nhân của mỗi nhóm (Buck et al. 1994).
- - Viêm âm đạo và viêm cổ tử cung: dung dịch 40% tinh dầu tràm trà
trong isopropyl 13% cho thấy tác dụng trong việc điều trị viêm cổ tử cung do
Trichomonas vaginalis hoặc viêm âm đạo do Candida albicans ở 130 phụ nữ.
Theo đó 20% phụ nữ được chữa lành viêm cổ tử cung do Trichomonas
vaginalis sau bốn lần điều trị hàng tuần (Pena EF et al. 1962). Trong một
nghiên cứu khác, 28 phụ nữ bị viêm âm đạo do Candida albicans được điều trị
bằng thuốc phụ khoa có chứa 0,2 g dầu tràm trà trong 90 ngày. Sau 30 ngày
điều trị, 24 bệnh nhân đã không còn các triệu chứng như ra khí hư, huyết trắng
và cảm giác nóng và 21 bệnh nhân không còn Candida albicans (Belaiche P.
et al. 1988)
- - Viêm bọng đái: Một thử nghiệm ngẫu nhiên đánh giá hiệu quả của dầu tràm
trà so với giả dược trong việc điều trị cho 26 phụ nữ bị viêm bàng quang mạn
tính. Bệnh nhân được uống 8mg dầu mỗi ngày trong 6 tháng. Sau khi điều trị,
54% phụ nữ được điều trị bằng tinh dầu không còn các triệu chứng viêm bàng
quang, trong khi đó chỉ có 15% ở nhóm dùng giả dược hết triệu chứng
(Belaiche P. et al. 1988)
- Số liệu từ một số nghiên cứu lâm sàng gần đây được tóm tắt trong
bảng 3 (Carson C.F et al. 2006). Hầu hết các thử nghiệm theo phương pháp
ngẫu nhiên có đối chứng (randomized controlled trial - RCT) mù đôi, nhưng
mùi đặc trưng của tinh dầu tràm trà không tránh được bệnh nhân biết nên
trong một số thử nghiệm chỉ có người khảo sát được coi là không biết
(investigator blinded).
- Bảng 3. Các kết quả lâm sàng được ghi nhận khi điều trị một số bệnh với tinh
dầu tràm trà (TDTT)
Số lượng bệnh
nhân
Phương
pháp

nghiên cứu
Nhóm điều
trị (số bệnh
nhân được
đánh giá)
Thời gian
chỉ định
Kết quả Tác dụng ngoại ý
Tài liệu
tham khảo
18 bệnh nhân tái
phát rộp môi
herpes (mụn
rộp)
RCT,
investigator
blinded
b
Gel 6% TDTT
(9), gel giả
dược (9)
5 lần
/ngày
Thời gian trung bình để
chữa lành vết rộp là 9
ngày đối với TDTT và
12,5 ngày đối với giả
dược (không có ý nghĩa)
1 trong nhóm TDTT
(không nêu rõ triệu

chứng)
Carson,
C.F et al.
2001
126 bệnh nhân
bị gàu ở mức độ
nhẹ đến trung
bình
RCT,
investigator
blinded
b
dầu gội đầu
5% TDTT
(63), dầu gội
đầu giả dược
(62)
hàng
ngày,
trong suốt
4 tuần
Toàn bộ số điểm da đầu
tổn thương cải thiện đáng
kể trong nhóm TDTT
(41,2%) so với nhóm
dùng giả dược (11,2%) (P
<0,001)
3 (5%) nhóm TDTT ,
8 (13%) trong nhóm
giả dược (ví dụ, bỏng

nhẹ, châm chích,
ngứa)
Nenoff P
et al. 1996
117 bệnh nhân
nhiễm nấm
onychomycosis
RCT, mù
đôi
100% TDTT
(64), 1%
clotrimazole
(53)
Hai lần
mỗi ngày
cho 6
tháng
Khỏi hoàn toàn hoặc một
phần ở 60% dùng TDTT
và 61% bệnh nhân dùng
clotrimazole sau 6 tháng
điều trị (P> 0,05)
5 (7,8%) nhóm
TDTT, 3 (5,7%)
trong nhóm
clotrimazole (ban đỏ,
kích ứng, phù nề)
Buck et al.
1994
60 bệnh nhân

ngoại trú với
chẩn đoán lâm
sàng nhiễm nấm
onychomycosis
RCT, mù
đôi
kem chứa 2%
butenafine
hydrochloride
và 5% TDTT
(40), kem
chứa 5%
TDTT (20)
3 lần mỗi
ngày
trong 8
tuần
Chữa được 80% bệnh
nhân nhóm butenafine +
TDTT và 0% nhóm
TDTT (P <0,0001)
4 (10%) trong nhóm
butenafine + TDTT
(viêm nhẹ)
Syed et al.
1999
Số lượng bệnh
nhân
Phương
pháp

nghiên cứu
Nhóm điều
trị (số bệnh
nhân được
đánh giá)
Thời gian
chỉ định
Kết quả Tác dụng ngoại ý
Tài liệu
tham khảo
13 bệnh nhân
AIDS và nhiễm
nấm miệng
candida kháng
fluconazole
Theo loạt ca
bệnh
Dung dịch
uống tinh dầu
tràm (15 ml)
(12)
4 lần mỗi
ngày
trong 2-4
tuần
Tỷ lệ có đáp ứng lâm
sàng là 67% sau 4 tuần
(chữa được ở 2 bệnh
nhân, cải thiện ở 6 bệnh
nhân, không có đáp ứng ở

4 bệnh nhân, xấu hơn ở 1
bệnh nhân)
không
Jandourek
et al. 1998
27 bệnh nhân
AIDS và nhiễm
nấm miệng
candida kháng
fluconazole
Thử nghiệm
mở nhãn
Dung dịch
uống tinh dầu
tràm (15 ml)
(12), dung
dịch uống tinh
dầu tràm
không cồn (5
ml) (13)
4 lần mỗi
ngày
trong 2-4
tuần
Đáp ứng lâm sàng với
nấm ở 58% bệnh nhân
(dung dịch có cồn) và
54% (dung dịch không
cồn) sau 4 tuần
8 (66,7%) trong

nhóm uống dung
dịch có cồn, 2
(15,4%) trong nhóm
uống dung dịch
không cồn (bỏng từ
nhẹ đến trung bình)
Vazquez et
al. 2002
121 bệnh nhân
được chẩn đoán
lâm sàng với
bệnh nấm da bàn
chân
RCT, mù
đôi
10% TDTT
trong
sorbolene
(37), 1%
tolnaftate (33),
giả dược
(sorbolene)
(34)
Hai lần
mỗi ngày
trong 4
tuần
Chữa được nấm và cải
thiện lâm sàng ở 46%
bệnh nhân nhóm

tolnaftate, 22% (TDTT),
và 9% (giả dược);
tolnaftate tốt hơn so với
giả dược (P = 0,003)
nhưng TDTT thì không
(P = 0,59); TDTT không
khác nhóm giả dược (P =
0,3)
không
Brand C et
al. 2001
137 bệnh nhân
dương tính với
nấm da bàn chân
RCT, mù
đôi
25% TDTT
(36), 50%
TDTT (38),
giả dược (46)
Hai lần
mỗi ngày
trong 4
tuần
Chữa hiệu quả ở 48%
bệnh nhân nhóm 25%
TDTT), 50% (50%
TDTT), và 13% (giả
dược); TDTT tốt hơn so
với giả dược (P <0,0005)

1 (2,8%) trong nhóm
25% TDTT, 3 (7,9%)
trong nhóm 50%
TDTT (viêm da mức
trung bình đến nặng)
Satchell et
al. 2002
a
RCT (randomized controlled trial): thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng
b
investigator blinded: mùi đặc trưng của tinh dầu tràm trà không tránh được bệnh
nhân biết nên chỉ có người khảo sát được coi là không biết.
2.3. Tác dụng sinh học của tinh dầu giàu 1,8-cineole (tinh dầu Tràm năm gân
và Tràm cajuput)
2.3.1. Các loại tinh dầu giàu 1,8-cineole
1,8- cineol là hợp chất có nhiều trong tinh dầu tràm Cajuput và tinh dầu tràm Năm
gân
2.3.2. Tác dụng sinh học của tinh dầu giàu cineole
Tác dụng kháng khuẩn là tác dụng nổi bật nhất của tinh dầu giàu 1,8- cineol
Các thử nghiệm đã chứng minh tinh dầu tràm năm gân và các sản phẩm
thương mại và dược phẩm của nó là niaouli oil (N) và Gomenol (G) có tác dụng kìm
hãm và kháng lại các chủng vi khuẩn Erwinia, Candida albicans, Micrococcus. Trong
đó tác dụng tốt nhất là trên Erwinia (Bouraïma-Madjebi et al. 1996). Các thử nghiệm
sơ bộ khác còn cho thấy tinh dầu tràm Năm gân và các chế phẩm của nó có tác dụng
trên một số chủng vi khuẩn khác là Pseudomonas, Klebsiella, Escherichia colt và
Agrobacterium
Bảng: Đường kính ức chế vi khuẩn (mm) của M. quinquenervia (inhibition zone)
Mẫu Erwinia Candida albicans Micrococcus
t op t op t op
TTE 2,03 2,1 1,75 2,8 2,04 3,7

N 3,91 1,6 3,5 0,6 2,3 1,1
G 0,11 1 0,32 0,7 0,83 0,23
E 7 11 4 1,3
Nia 3,3 7,3 4
JLD 3 5 1,3 2,3
N 5,3 3
1 5,33 2,7 8,33
2 6 6 3 6
Tác dụng kìm khuẩn được thể hiện bởi một vùng ức chế đục.
Hiệu quả diệt khuẩn được thể hiện bởi một vùng ức chế mờ.
op: đục; t: mờ,
TTE: tinh dầu Tràm trà;
N:tinh dầu thương mại của M. quinquenervia;
G: Gomenol (sản phẩm dược phẩm);
E: tinh dầu bạch đàn;
Nia, JLD: mẫu tinh dầu niaouli thử nghiệm;
1-2: mẫu tinh dầu của M. quinquenervia
Nhiều thử nghiệm khác cho thấy tinh dầu M. quinquenervia có tác dụng diệt khuẩn
tương đương hoặc mạnh tinh dầu bạch đàn và tinh dầu tràm trà
2.3.3. Sử dụng tinh dầu giàu 1,8-cineole trong y học cổ truyền
Dầu tràm cajuput được phân loại là không độc hại (rodent LD50 of 2–5g/kg,
Tisserand and Balacs 1995) và không nhạy cảm, mặc dù kích thích da có thể xảy ra ở
nồng độ cao (Lawless 1995).
Tinh dầu tràm cajuput được dùng trong y học cổ truyền làm chất khử trùng để
điều trị vết thương, điều trị triệu chứng của bỏng, viêm da, dị ứng, viêm đại tràng, ho
và cảm lạnh, viêm nướu răng, chốc lở, viêm mũi họng, bệnh vẩy nến, xoang, viêm
miệng và viêm amiđan (Altman PM et al. 1989; Apted J.H et al. 1991; Bhushan M et
al. 1997; De Groot A.C et al. 1996; Deutscher Arzneimittel-Codex 1996; Knight TE
et al. 1994; Osborne F et al. 1998; Selvaag E et al. 1994; Van der Valk PGM et al.
1994)

Lassak và McCarthy 1983 mô tả việc sử dụng dầu tràm để chữa bệnh: Dầu
được sử dụng bên trong để điều trị ho và cảm lạnh, chống co thắt dạ dày, đau bụng và
bệnh hen suyễn, liều dùng là 1-5 giọt. Nó được sử dụng bên ngoài để giảm đau dây
thần kinh và bệnh thấp khớp, thường ở dạng thuốc mỡ và liniments.
Một vài giọt nhỏ vào bông gòn để làm giảm đau răng, đau tai.
Dầu có thể trừ sâu bệnh, có tác dụng an thần an thần, hữu ích trong điều trị giun, đặc
biệt là giun đũa, và nhiễm trùng bộ phận sinh dục.
Ngoài ra nó còn được sử dụng như như một hương liệu trong nấu ăn, xà
phòng, mỹ phẩm, chất tẩy rửa và nước hoa (Sellar 1992; Lawless 1995). Các thành
phần kháng khuẩn của dầu tràm đã được xác định là bao gồm cả 1,8-cineole, (-)-
Linalool, (-)-terpinen-4-ol, (±)-α-tecpineol (Nguyễn Duy Cường et al 1994) và 3,5 -
dimethyl-4 ,6-di-O-methylphloroacetophenone (hoặc cajeputol) (Lowry 1973). Việc
sử dụng các hợp chất platyphyllol và tương tự như kem chống nắng, thuốc sát trùng
và thuốc diệt nấm đã được cấp bằng sáng chế (Joulain và Racine 1994).
Tinh dầu Tràm năm gân có tác dụng khử trùng. Niaouli là dầu được chiết
xuất từ Tràm năm gân chủ yếu được sử dụng để điều trị nhiễm trùng phổi đặc biệt là
đối với bệnh cảm lạnh và viêm phế quản.
Dầu có thể được sử dụng dưới dạng trà (lá khô sắc với nước), hoặc xông với hơi nước
Niaouli có khả năng thâm nhập cao khuếch tán tạo ra hiệu quả ngừa và chống lại
nhiễm trùng tiềm ẩn. Mặt khác, theo Degrez (1908), aldehyde trong dầu Niaouli, được
gọi là "Gomenol", có hương vị thơm lạnh có độc tính thấp bởi iều gây chết người
được báo cáo đối dầu tinh khiết Niaouli lỏng là 0,17 g/kg thể trọng so với collargol
(keo bạc), phenol, formol (formaldehyde) là 0,34, 0,51, 0,79 g/kg thể trọng.
2.4. Giá trị hương liệu (viridiflorol, aromadenrol,
α
-terpineol, v.v.)

3. Kết luận
Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh tác dụng của tinh dầu tràm trà và các thành
phần hoạt chất chính của nó từ các thử nghiệm in vitro, in vivo đến nghiên cứu lâm

sàng. Tác dụng kháng khuẩn, kháng nấm là tác dụng đáng chú ý nhất của tinh dầu
tràm trà, giúp giải thích hiệu quả điều trị của tinh dầu tràm trà đối với hàng loạt các
bệnh do nhiễm khuẩn và nhiễm nấm. Ngoài ra, tinh dầu tràm còn có tác dụng kháng
virus, kháng nguyên sinh bào. Những phát hiện mới về khả năng chống ung thư của
thành phần terpinen-4-ol và tinh dầu cũng đang mở ra hướng mới trong nghiên cứu và
ứng dụng tinh dầu tràm phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Altman PM. Australian tea tree oil: a natural antiseptic. Australian Journal of
Biotechnology, 1989, 3:247–248.
Apted J.H. Contact dermatitis associated with the use of tea tree oil. Australia
journal of dermatology, 1991, 32:177.
Bassett I.B. et al. A comparative study of tea tree oil versus benzoyl peroxide
in the treatment of acne. Medical Journal of Australia, 1990, 153:455–458.
Belaiche P. Letter to the editor. Phytotherapy Research, 1988, 2:157.
Bhushan M, Beck MH. Allergic contact dermatitis from tea tree oil in a wart
paint. Contact Dermatitis, 1997, 36:117–118.
Blackwell A.L. Tea tree oil and anaerobic (bacterial) vaginosis. Lancet, 1991,
337:300.
Brand, C., A. Ferrante, R. H. Prager, T. V. Riley, C. F. Carson, J. J. Finlay-
Jones, and P. H. Hart. The water soluble-components of the essential oil of Melaleuca
alternifolia (tea tree oil) suppress the production of superoxide by human monocytes,
but not neutrophils, activated in vitro. Inflamm. Res, 2001, 50:213-219.
Brophy J.J., Doran J.C., 1996. Essential oil of Tropical Asteromytus,
Callistemum and Melaleuca Species. ARAWNG, Canberra, 129 pp.
Brophy JJ et al. Gas chromatographic quality control for oil of Melaleuca
terpinen-4-ol type (Australian tea tree). Journal of Agricultural and Food Chemistry,
1989, 37:1330–1335.
Buck, D. S., D. M. Nidorf, and J. G. Addino. Comparison of two topical
preparations for the treatment of onychomycosis: Melaleuca alternifolia (tea tree) oil
and clotrimazole. J. Fam. Pract,1994, 38:601-605.

Carson C.F., K.A. Hammer, and T. V. Riley. Melaleuca alternifolia (Tea
Tree) Oil: a Review of Antimicrobial and Other Medicinal Properties, Clin Microbiol
Rev, 2006, Jan;19(1):50-62.
Brand, C., M. A. Grimbaldeston, J. R. Gamble, J. Drew, J. J. Finlay-Jones
and P. H. Hart. 2002. Tea tree oil reduces the swelling associated with the efferent
phase of a contact hypersensitivity response. Inflamm. Res. 51:236–244.
Carson CF et al. Efficacy and safety of tea tree oil as a topical antimicrobial
agent, Journal of Hospital Infection, 1998, 40:175–178.
Carson C.F., Riley TV. Antimicrobial activity of the major components of the
essential oils of Melaleuca alternifolia. Journal of Applied Bacteriology, 1995,
78:264–269.
Carson C.F., Riley TV. In vitro activity of the essential oil of Melaleuca
alternifolia against Streptococcus spp. Journal of Antimicrobial Chemotherapy, 1996,
37:1177–1178.
Carson C.F., Riley TV. Susceptibility of Propionibacterium acnes to the
essential oil of Melaleuca alternifolia. Letters in Applied Microbiology, 1994, 19:24–
25.
Carson C.F., Riley TV. Toxicity of the essential oil of Melaleuca alternifolia
or tea tree Journal of Toxicology (Clinical Toxicology), 1995, 32:193–194.
Carson, C.F., L. Ashton, L. Dry, D. W. Smith, and T. V. Riley. Melaleuca
alternifolia (tea tree) oil gel (6%) for the treatment of recurrent herpes labialis. J.
Antimicrob. Chemother, 2001, 48:450-451.
Chan C.H., Loudon KW. Activity of tea tree oil on methacillin-resistant
Staphylococcus aureus (MRSA). Journal of Hospital Infection, 1998, 39:244–245.
Chieh-ShanWu, Yun-Ju Chen, Jeremy J.W. Chen, Jeng-Jer Shieh,
Chia-Hsin Huang,Pei-Shan Lin, Gee-Chen Chang, JingHua-Tsai Chang,
and Chi-Chen Lin, Terpinen-4-ol induces apoptosis in human
nonsmall cell lung cancer in vitro and in vivo, evidence-based
complementary and alternative, Medicine, Volume 2012, Article ID
818261, 13 pages, doi:10.1155/2012/818261

Concha J.M. et al. Antifungal activity of Melaleuca alternifolia (tea tree) oil
against various pathogenic organisms, Journal of the American Podiatry Medical
Association, 1998, 88:489–492.
Cribb A.B, Cribb J.W. Useful wild plants in Australia. Sydney,
Fontana/Collins, 1981.
De Groot A.C. et al. Systemic contact dermatitis from tea tree oil. Contact
Dermatitis, 1992, 27:279–280.
De Groot A.C. Airborne allergic contact dermatitis from tea tree oil. Contact
Der matitis, 1996, 35:304–305.
Deutscher Arzneimittel-Codex, Suppl. 8. Stuttgart, Govi-Verlag, 1996.
Minami, M., M. Kita, T. Nakaya, T. Yamamoto, H. Kuriyama, and J.
Imanishi. 2003. The inhibitory effect of essential oils on herpes simplex virus type-1
replication in vitro. Microbiol. Immunol. 47:681–684.
Elliott C. Tea tree oil poisoning. Medical Journal of Australia, 1993,
159:830–831.
AS 2782, 1997. Essential oils - oil of Melaleuca, terpinen-4-ol type. Sydney,
Standards Association of Australia.
European pharmacopoeia, 3rd ed. Strasbourg, Council of Europe, 1996.
Farnsworth NR, ed. NAPRALERT database. Chicago, University of Illinois
at Chicago, IL, March 17, 1998 production (an online database available directly
through the University of Illinois at Chicago or through the Scientific and Technical
Network [STN] of Chemical Abstracts Services).
Feinblatt H.M Cajeput-type oil for the treatment of furunculosis. Journal of
the National Medical Association, 1960, 52:32–34.
Greay S.J., Ireland D.J., Kissick H.T., Levy A, Beilharz MW, Riley TV,
Carson CF, Induction of necrosis and cell cycle arrest in murine cancer cell lines by
Melaleuca alternifolia (tea tree) oil and terpinen-4-ol, Cancer Chemother Pharmacol,
2010 Apr;65(5):877-88.
Guenther E. Australian tea tree oils. Perfumery and Essential Oils Record,
1968, 642–644.

Guidelines for predicting dietary intake of pesticide residues, 2nd rev. ed.
Geneva, World Health Organization, 1997 (document WHO/FSF/FOS/97.7).
Hammer KA et al. In vitro activity of essential oils, in particular Melaleuca
alternifolia (tea tree) and tea tree oil products, against Candida spp. Journal of
Antimicrobial Chemotherapy, 1998, 42:591–595.
Hart, P. H., C. Brand, C. F. Carson, T. V. Riley, R. H. Prager, and J. J. Finlay-
Jones. Terpinen-4-ol, the main component of the essential oil of Melaleuca
alternifolia (tea tree oil), suppresses inflammatory mediator production by activated
human monocytes. Inflamm. Res. 2000, 49:619-626 )
Jacobs MR, Hornfeldt CS. Melaleuca oil poisoning. Journal of Toxicology
(Clinical Toxicology), 1994, 32:461–464.
Jandourek, A., J. K. Vaishampayan, and J. A. Vazquez. Efficacy of melaleuca
oral solution for the treatment of fluconazole refractory oral candidiasis in AIDS
patients. AIDS, 1998, 12:1033-1037.
ISO 4730, 2004. Oil of Melaleuca, terpinen-4-ol type(tea tree oil).
International Organisation for Standardisation, Publ. in Switzeland, Geneve, 7 pp.
Khan Ikhlas A., Ehab A. Abourashed, 2010. Leung's Encyclopedia of
Common Natural Ingredients. Used in Food, Drugs, and Cosmetics. Third edition by
John Wiley and Sons, Inc publication, Hoboken, New Jersey. Printed in the United
States of America, 833 pp. (124-126 pp).
Knight TE, Hausen BM. Melaleuca oil (tea tree oil) dermatitis. Journal of the
American Academy of Dermatology, 1994, 30:423–427.
Lê Đình Khả, Nguyễn Thị Thanh Hường, K. Pinyopusarerk, Mai Trung Kiên,
2008, Biến sinh trưởng, hàm lượng và chất lượng tinh dầu của một số loài tràm hiện
có ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 11, trang
68-76.
Lê Đình Khả, Hà thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Thanh Hường, K. Pinyopusarerk,
2011. Nghiên cứu chọn giống Tràm trà có năng suất và chất lượng tinh dầu cao tại Ba
Vì. Tạp chí Khoa học Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 6, trang 196-205.
Nelson RRS. In vitro activities of five plant essential oils against methacillin-

resistant Staphylococcus aureus and vancomycin-resistant Enterococcus faecium.
Journal of Antimicrobial Chemotherapy, 1997, 40:305–306.
Nenoff P et al. Antifungal activity of the essential oil of Melaleuca alternifolia
(tea tree oil) against pathogenic fungi in vitro. Skin Pharmacology, 1996, 9:388–394.
ISO 4730, 1996. Oil of Melaleuca, terpinen-4-ol type (tea tree oil). Geneva,
Interna-oil. International Organization for Standardization.
Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Xuân Quát, Hoàng Chương, Nguyễn Minh Chí,
2004. Một số ý kiến về cây tràm (Melaleuca cajuputi) ở Việt Nam. Tạp chí Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn. Số 11, trang 1600-1602.
Osborne F, Chandler F. Australian tea tree oil. Canadian Pharmacy Journal,
1998, 131:42–46.
Pena EF. Melaleuca alternifolia oil. Its use for trichomonal vaginitis and other
vaginal infections. Obstetrics and Gynecology, 1962, 19:793–795.
Penfold AR, Morrison FR. Tea tree oils. In: Guenther E, ed. The essential oils.
Vol. IV, New York, NY, D. Van Norstrand Co., 1950:60–72.
Quality control methods for medicinal plant materials. Geneva, World Health
Organization, 1998.
Phùng Cẩm Thạch (2000). Giới thiệu một số loài tràm có triển vọng cho sản xuất tinh
dầu và kỹ thuật chưng cất tinh dầu. Trong Phát triển rừng tràm ở Đồng bằng Sông
Cửu Long. Nhà xuất bản văn hoá dân tộc, TP. Hồ Chí Minh, trang 29-35.
Satchell, A. C., A. Saurajen, C. Bell, and R. S. Barnetson. Treatment of
interdigital tinea pedis with 25% and 50% tea tree oil solution: a randomized, placebo
controlled, blinded study. Australas. J. Dematol.2002, 43:175-178.
Satchell, A. C., A. Saurajen, C. Bell, and R. S. Barnetson. Treatment of
dandruff with 5% tea tree oil shampoo. J. Am. Acad. Dermatol.2002, 47:852-855.
Schnitzler, P., K. Schön, and J. Reichling. Antiviral activity of Australian tea
tree oil and eucalyptus oil against herpes simplex virus in cell culture. Pharmazie
2001, 56:343-347.
Seawright A., 1993. Tea tree oil poisoning (comment). Medical Journal of
Australia, 159:831.

Selvaag E et al. Contact allergy to tea tree oil and cross-sensitization to
colophony, Contact Dermatitis, 1994, 31:124–125.
Southwell I, Lowe R, eds. Tea tree. The genus Melaleuca. Sydney, Harwood
Academic, Publishers, 1999.
Swords G, Hunter GLK. Composition of Australian tea tree oil (Melaleuca
alternifolia). Journal of Agricultural and Food Chemistry, 1978, 26:734–737.
Syed, T. A., Z. A. Qureshi, S. M. Ali, S. Ahmad, and S. A. Ahmad. Treatment
of toenail onychomycosis with 2% butenafine and 5% Melaleuca alternifolia (tea
tree) oil in cream. Trop. Med. Int. Health. 1999, 4:284-287.
Tong, M. M., P. M. Altman, and R. S. Barnetson. Tea tree oil in the treatment
of tinea pedis. Aust. J. Dermatol. 1992, 33:145-149.
Udomlak Sukatta, Prapassorn Rughtaworn, Olarn Tuntawiroon
and Weerasri Meaktrong, Physico-Chemical Properties, Chemical
Composition and In Vitro Antimicrobial and Free Radical-Scavenging
Capacity of Tea Tree Essential Oil in Thailand, Kasetsart J. Nat. Sci.,
2011, 45 : 473 - 480
Van der Valk PGM et al. Allergisch contacteczeem voor “tea tree” olie.
Nederlands Tijdschrift voor Geneeskunde, 1994, 138:823–825.
Vazquez, J. A., and A. A. Zawawi. Efficacy of alcohol-based and alcohol-free
melaleuca oral solution for the treatment of fluconazole-refractory oropharyngeal
candidiasis in patients with AIDS. HIV Clin. Trials 2002, 3:379-385.
Verghese et al. Indian tea tree (Melaleuca alternifolia Cheel) essential oil.
Flavour and Fragrance Journal, 1996, 11:219–221.
Villar D et al. Toxicity of Melaleuca oil and related essential oils applied
topically on dogs and cats. Veterinary and Human Toxicology, 1994, 36:139–142.
Viollon C, Chaumont JP. Antifungal properties of essential oils and their main
components upon Cryptococcus neoformans. Mycopathologia, 1994, 128:151–153.
Viollon, C., D. Mandin, and J. P. Chaumont. Activités antagonistes, in vitro,
de quelques huiles essentielles et de composés naturels volatils vis á vis de la
croissance de Trichomonas vaginalis. Fitoterapia 1996, 67:279-281.

Walker M. Clinical investigation of Australian Melaleuca alternifolia oil for a
variety of common foot problems. Current podiatry, 1972, 18:7–15.
Williams LR et al. Therapeutic use for tea tree oil. Australian Journal of
Pharmacy, 1997, 78:285–287.
Greay SJ, et al (2010), Inhibition of established subcutaneous murine tumour
growth with topical Melaleuca alternifolia (tea tree) oil. Cancer Chemother
Pharmacol., 66(6):1095-102.
Ekundayo, O., Laakso, I. and Hiltunen, R. (1987) Volatile components of Melaleuca
leucadendron (cajuput) oils. Acta Pharmaceutica Fennica, 96, 79–84.
Brophy, J.J. and Doran, J.C. (1997) Essential Oils of Tropical Asteromyrtus,
Callistemon and MelaleucaSpecies: in search of interesting oils with commercial
potential. ACIAR Monograph No. 40, ACIAR,Canberra.
Brophy, J.J. and Doran, J.C. (1998) University of NSW and CSIRO Forestry
and Forest Products.Unpublished results.
Caruhapattana, B. (1994) Royal Forest Department, Bangkok, Thailand.
Personal communication.
Yaacob, K.B., Abdullah, C.M. and Joulain, D. (1989) Essential oil of
Melaleuca cajuputi. Proceedings of the 11th International Congress of Oils,
Fragrances and Flavours, New Delhi, India, 12–16 Nov.1989. Vol. 1. 140. Oxford and
IBH. New Delhi.
Motl, O., Hodacová, J. and Ubik, K. (1990) Composition of Vietnamese
cajuput essential oil. Flavour and Fragrance Journal, 5, 39–42.
Todorova, M. and Ognyanov, I. (1988) Composition of Vietnamese essential
oil from Melaleuca leucadendron L., Perfumer and Flavorist, 13, 17–18.
Tisserand, R. and Balacs, T. (1995) Essential Oil Safety. Churchill
Livingstone, Edinburgh.
Lawless, J. (1995) The Illustrated Encyclopedia of Essential Oils. Element
Books Ltd, Shaftesbury.
Lassak, E.V. and McCarthy, T. (1983) Australian Medicinal Plants. Methuen,
Australia.

Sellar, W. (1992) The Directory of Essential Oils. C.W.Daniel Co. Ltd, Essex.
Nguyen Duy Cuong, Truong Thi Xuyen, Motl, O., Stránský, K., Presslová, J.,
Jedlicková, Z. and Serý,V. (1994) Antibacterial properties of Vietnamese cajuput oil.
Journal Essential Oil Research, 6, 63–67.
Lowry, J.B. (1973) A new constituent of biogenetic, pharmacological and
historical interest from Melaleuca cajeputi oil. Nature, 241, 61–62.
Joulain, D. and Racine, P. (1994) Use of derivatives of 6,6-dimethyl 2-
acylcyclohex-4-ene-1,3-dioneas sunscreens and bactericide and fungicide
compositions. Eur. Pat. Appl. EP 613,680 (Cl. A61K7/42). (Chem Abs (1995)
121:263279x.).
Bouraïma-Madjebi, S., Trilles, B., Valet, G. and Pineau, R. (1996)
Valorisation des plantes à essence de Nouvelle-Calédonie. Rapport de convention,
No. 239, Productions Vegetates et Forêts/Direction du Developpement Rural.,
Université Française du Pacifique, Nouvelle-Caledonie, pp. 5–57.

×