Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

BÀI GIẢNG LÝ LUẬN GIÁO DỤC THỂ CHẤT potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.49 KB, 32 trang )

2

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BÀI GIẢNG
LÝ LUẬN GIÁO DỤC THỂ CHẤT

Người soạn: Phạm Dũng

2


3

CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỂ DỤC THỂ THAO
1.

Tóm tắt lịch sử phát triển chung về thể dục thể thao:

Thể dục thể thao ngay từ khi xuất hiện và phát triển trong xã hội lồi người
đến khi hình thành một hệ thống như ngày nay, đã trải qua hàng ngàn năm.Lịch sử
phát triển của Thể dục thể thao luôn phù hợp với các thời kỳ phát triển của xã hội
lồi người.
Thời kỳ ngun thủy: Cuộc sống tự nhiên địi hỏi các thành viên những yêu
cầu nhất định về sự chuẩn bị thể lực, sự khéo léo, sức mạnh, sức bền, khả năng hoàn
thành nhiệm vụ trong săn bắn, chiến tranh và chống chọi với sự khắc nghiệt của điều
kiện tự nhiên. Chính vì vậy đã hình thành và phát triển hệ thống giáo dục thể chất đa
dạng. Thời kỳ này càng chứng minh sự tồn tại và phát triển của con người phụ thuộc
trực tiếp vào trình độ chuẩn bị và phát triển các tố chất thể lực. Nhiều Bộ tộc thời cổ


đại đã biết sử dụng các bài tập phát triển thể lực và trò chơi vận động như một
phương tiện đặc biệt nhăm chuẩn bị cho con người vào các lao động tự nhiên. Ở một
số bộ tộc có quy định nghiêm ngặt khơng cho phép thanh niên được cưới vợ nếu
chưa trải qua những thử thách nhất định về sự chuẩn bị thể lực....
Dù trình độ phát triển lực lượng sản xuất xã hội đến mức độ nào thì vai trị
quyết định giá trị phát triển để có tư chất thể lực vẫn có trong đời sống xã hội và tự
nhiên. Sự phát triển của chúng luôn là bộ phận quan trọng của nền giáo dục con
người.
Trong xã hội nơ lệ, điển hình là thời cổ Hy lạp, để tiến hành chiến tranh xâm
lược và đàn áp nô lệ; giai cấp chủ nô đã rất chú trọng đến việc giáo dục cho các
chiến binh có những kiến thức phong phú và có thể lực tốt; từ đó họ có những đội
quân hùng mạnh. Thời cổ hy lạp, nếu ai không biết đọc, viết và bơi lội thì bị coi là
mù chữ. Giáo dục trong các quốc gia cổ Hy lạp: Spart và Afin là một loại hình cổ
của sự phát triển Thể dục thể thao. Nội dung, mục đích của Giáo dục thể chất thời kỳ
này nhằm đảm bảo tính phù hợp với điều kiện và yêu cầu của chế độ nông nô. Người
học các môn khoa học tự nhiên, xã hội phải học Thể dục- Đấu kiếm- Cưỡi ngựa- Bơi
lội và Chạy; từ 15 tuổi trở lên phải học cả Vật và Vật chiến đấu. Nhờ đó con người
được giáo dục sức mạnh, sự khéo léo và các tố chất cần thiết. Tiêu biểu nhất về sự
phát triển Thể dục thể thao của thời kỳ này là các Đại hội Olympic; đây là hoạt động
có giá trị lịch sử, văn hóa cao trong đời sống của thời kỳ c hy lạp. Những người
chiến thắng trong Olympic được xã hội tôn vinh như vị anh hùng, được xã hội ca
ngợi- làm thơ- tạc tượng. Nhiều nhà khoa học vĩ đại thời cổ đại nổi tiếng thế giới
cũng từng là những vận động viên xuất sắc. Ví dụ: Nhà tốn học Pitagor là nhà vơ
địch Olympic về vật chiến đấu; Nhà triết học Platon cũng nổi danh về vật. Các nhà
triết học: Socrate và Aristote, diễn giả Démosthène, nhà văn Lukian và các vĩ nhân
khác đã đánh giá ý nghĩa lớn lao của Giáo dục thể chất và khâm phục sự biểu hiện
3


4


sức mạnh, lòng dũng cảm và hào hiệp. Aristote đã từng khẳng định: “ Khơng có cái
gì làm tiêu hao và phá hủy con người hơn là sự ngưng trệ vận động”. Trong chế độ
nông nô, các bài tập thể dục khác nhau (Vật, nhào lộn, cưỡi ngựa, đấu kiếm) đã được
sử dụng rộng dãi ở Ai cập, Babilon, Ba tư, Trung quốc, Ấn độ và đặc biệt ở thành cổ
Rôma. Bắt đầu từ chế độ nông nô, Thể dục thể thao được coi là phương tiện phục vụ
cho giai cấp thống trị.
Trong chế độ phong kiến, Giáo dục thể chất mang tính chất phục vụ chiến
tranh. Giáo dục thể chất trong hệ thống quân đội của tầng lớp phong kiến với mục
tiêu nắm vững 7 yêu cầu của người hiệp sỹ: cưỡi ngựa, đấu kiếm, bắn cung, bơi lội,
săn bắn, chơi cờ và đọc thơ. Những hiệp sỹ đó làm nên đội quân hùng mạnh để giai
cấp phong kiến tiến hành chiến tranh xâm lược và đàn áp phong trào nồi dậy của
nông dân.
Trong xã hội tư bản, Thể dục thể thao phát triển ở trình độ cao. Sự xuất hiện
và phát triển sâu rộng của Thể dục thể thao như là một bộ phận quan trọng của nền
văn hóa xã hội (Thể thao nghiệp dư và nhà nghề). Đồng thời trong giai đoạn này đã
xuất hiện cơ sở về nền lý luận giáo dục thể chất tư sản. Thể dục thể thao trong xã hội
tư bản biểu hiện rõ rệt tính chất giai cấp; Giai cấp tư sản sử dụng Thể dục thể thao
với mục đích đặc quyền của tầng lớp bóc lột, đánh lạc hường quần chúng lao động
và đặc biệt là lôi kéo tầng lớp thanh niên ra khỏi đời sồng chính trị xã hội và phong
trào cách mạng; kích động và đào tạo thanh niên để chuẩn bị cho chiến tranh.
2.

Một số khái niệm cơ bản của Giáo dục thể chất.

Giáo dục Thể chất: Là quá trình sư phạm nhằm giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ,
hoàn thiện về thể chất và nhân cách, nâng cao khả năng làm việc và kéo dài tuổi thọ
của con người.
Hệ thống Giáo dục thể chất: là sự tổng hợp các cơ sở khoa học về quan điểm
và phương pháp luận của Giáo dục thể chất cúng với các cơ quan tổ chức thực hiện

và kiểm tra công tác Giáo dục thể chất quốc dân.
Văn hóa Thể chất: là một bộ phận của nền văn hóa chung, là một loại hình
hoạt động đặc biệt nhăm hình thành các tố chất thể lực, tăng cường sức khỏe và khả
năng làm việc của dân chúng. Các yếu tố cơ bản của hoạt động này là các bài tập thể
lực có liên quan chặt chẽ với quá trình hình thành, phát triển của nền văn hóa, giáo
dục chung của con người. Giáo dục Thể chất là bộ phận cấu trúc nên nền văn hóa thể
chất.
Phong trào Thể thao: là một hình thức đặc biệt của các hoạt động xã hội, có
nhiệm vụ phối hợp nâng cao trình độ văn hóa thể chất và phát triển thể thao trong
nhân dân. Phong trào thể thao là hoạt động có tính mục đích của các tổ chức nhà
nước, xã hội nhằm phát triển Thể dục thể thao. Phong trào thể thao là một bộ phận
hoạt động văn hóa, giáo dục; nó có vị trí và chức năng quan trọng trong giáo dục sự
hài hòa về nhân cách và thể chất con người.
4


5

Phát triển thể chất: là quá trình biến đổi và hình thành các tính chất tự nhiên
về hình thái, chức năng cơ thể trong đời sống tự nhiên và xã hội. Phát triển thể chất
của mỗi người phụ thuộc vào những đặc điểm sinh học, điều kiện sống và quá trình
giáo dục của xã hội. Các chỉ số để đánh giá trình độ phát triền thể lực là: chiều caocân nặng- lồng ngực- dung tích sống.
Chuẩn bị thể lực: Là nội dung của quá trình giáo dục thể chất, đây là hoạt
động chun mơn hóa nhằm chuẩn bị cho con người học tập, lao động và bảo vệ tổ
quốc.
Trình độ thể lực: Là kết quả của quá trình chuẩn bị thể lực, kỹ năng vận động
cho một loại hình hoạt động nào đó.
Học vấn thể chất: Là sự xác định các tri thức chung, các hê thống kỹ năng- kỹ
xảo đề điều khiển các hoạt động của cơ thể trong những điều kiện sống và hoạt động
khác nhau của con người.

CHƯƠNG II
GIÁO DỤC THỂ CHẤT TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.

Mục đích và nhiệm vụ của Giáo dục thể chất:

Mục đích: Góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ
thuật, quản ký kinh tế và văn hóa xã hội có thể chất cường tráng- phát triển hài hịađáp ứng được u cầu của chun mơn nghề nghiệp và có khả năng tiếp cận với thực
tiễn lao động, sản xuất... của nền kinh tế thị trường.
Nhiệm vụ:
- Giáo dục đạo đức, rèn luyện tinh thần tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật; xây
dựng niềm tin, lối sống lành mạnh, tinh thần tự giác học tập và rèn luyện thân thể ;
chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và bảo vệ tổ quốc.
- Cung cấp các kiến thức lý luận cơ bản về nội dung – phương pháp luyện
tập Thể dục thể thao, kỹ năng vận động và kỹ thuật cơ bản của một số mơn thể thao
thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng các phương tiện đó để tự rèn
luyện thân thể, cải thiện đời sống tinh thần của bản thân; đồng thời tham gia các
phong trào thể dục thể thao của nhà trường và xã hội.
- Góp phần duy trì- củng cố sức khỏe và phát triển cơ thể của sinh viên một
cách hài hòa; xây dựng những thói quen lành mạnh và khắc phục các thói quen xấu;
tránh xa các tệ nạn xã hội.
Trong các trường Đại học và cao đẳng, hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm
chung trong chỉ đạo, kiểm tra công tác giáo dục thể chất – phong trào thể thao và
theo dõi sức khỏe của sinh viên. Bộ môn Giáo dục thể chất có trách nhiệm về việc
tổ chức và tiến hành quá trình sư phạm và giáo dục thể chất cho sinh viên theo kế
5


6


hoạch giảng dạy của trường. Các hoạt động Thể dục thể thao quần chúng và nâng
cao thành tích thể thao do chi hội thể thao đại học và chuyên nghiệp( Ban văn thể )
Trường cùng với Bộ môn Giáo dục thể chất phối hợp với các tổ chức quần chúng
khác như Cơng đồn, Đồn TNCS Hồ Chí Minh trường thực hiện. Công tác kiểm tra
sức khỏe định kỳ và theo dõi tình trạng sức khỏe của sinh viên trong quá trình luyện
tập và thi đấu Thể dục thể thao do Y tế trường phối hợp với Bộ môn Giáo dục thể
chất tiến hành.
2.

Các hình thức Giáo dục thể chất:

Giáo dục thể chất trong các trường đại học phải được tiến hành bằng các hình
thức sau:
-

Giờ học thể dục thể thao:

+ Giờ chính khóa: (150 tiết chia thành 5 học phần) trang bị các kiến thức về lý
luận giáo dục thể chất; nguyên lý kỹ thuật một số môn thể thao theo điều kiện cơ sở
vật chất và con người của trường; các phương pháp tập luyện để duy trì và nâng cao
thể lực cho sinh viên.
+ Giờ ngoại khóa: ( 320 tiết chia ra 4 năm học, năm thứ nhất và thứ 2 mỗi
năm 60 tiết, năm thứ 3 và năm thứ tư mỗi năm 100 tiết) nhằm củng cố và hồn thiện
các bài học trong giờ chính khóa.
+ Các bài tập thể dục vệ sinh và chống mệt mỏi hàng ngày.
+ Các hoạt động thể thao quần chúng: Giải thể thao của khoa, trường và các
đội tuyển trường tham gia thi đấu ở các giải do các cấp ban ngành tổ chức.
3.

Trách nhiệm của sinh viên:


- Tham gia đầy đủ các buổi học thể dục thể thao( cả lý luận và thực hành)
theo thời khóa biểu và kế hoạch giảng dạy của nhà trường.
- Kiểm tra thể lực và sức khỏe định kỳ ( thực hiện các thử nghiệm cần thiết
để xác định trình độ thể lực và tình trạng các cơ quan chức năng của cơ thể)
- Tích cực học tập và tìm hiểu các tài liệu về thể dục thể thao tạo điều kiện
tiếp thu kiến thức về lý luận và phương pháp giáo dục thể chất.
- Có chế độ sinh hoạt, học tập và nghỉ ngơi hợp lý.
- Thường xuyên tập thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ và tự luyện tập để
phát triển thể lực theo sự hướng dẫn của giáo viên bộ môn Giáo dục thể chất.
- Củng cố sức khỏe, nâng cao trình độ thể lực trên cơ sở tiêu chuẩn rèn luyện
thân thể và hồn thiện kỹ thuật các mơn thể thao.
- Tích cực tham gia các phong trào thể thao quần chúng từ lớp, khoa, khóa,
trường và ngồi trường.
6


7

CHƯƠNG III
CƠ SỞ KHOA HỌC SINH HỌC CỦA GIÁO DỤC THỂ CHẤT
Giáo dục thể chất được xây dựng dựa trên những thành tựu của các khoa học
Y sinh học về cơ thể con người như: Sinh lý, Sinh hóa, Sinh cơ, Giải phẫu, Vệ sinh,
Y học.... Khơng có những kiến thức về cấu tạo của cơ thể, vè quy luật hoạt đọng của
từng cơ quan của các hệ cơ quan chức năng của cơ thể cũng như đặc điểm của các
q trình sống phức tạp thỉ khơng thể tổ chức và tiến hành công tác giáo dục thể chất
đạt hiệu quả.
1. Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất. Trao đổi chất và năng
lượng:
- Cơ thể con người là hệ sinh học thống nhất:

Y sinh học hiện đại khi nghiên cứu cơ thể sống thường tách nó ra thành các cơ
quan, hệ cơ quan và các chức năng riêng biệt. Tuy nhiên, cơ thể con người luôn là
một hệ sinh học hồn chỉnh và thơng nhất, có khả năng tự điều chỉnh và tự phát
triển. Sự thông nhất đó thể hiện ở cả hai mặt: Giữa các cơ quan, hệ cơ quan hoặc các
chức năng của cơ thể ln có sự tác động qua lại với nhau; sự biến đổi của một cơ quan
nhất thiết sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan khác và nói chung đến toàn bộ
cơ thể. Hoạt động của cơ thể bao gồm sự phối hợp của hoạt động tâm lý, hoạt động dinh
dưỡng và vận động trong mối liên hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh và chịu sự
tác động của môi trường. Sự thay đổi của môi trường bao gồm cả sự thay đổi của môi
trường tự nhiên và xã hội sẽ dẫn đến những thay đổi trạng thái của cơ thể.
- Trao đổi chất và năng lượng:
Sự thống nhất của cơ thể với mơi trường bên ngồi thể hiện ở sự trao đổi chất
và năng lượng. Không một tế bào nào của cơ thể có thể tồn tại nếu không liên tục
nhận được các chất dinh dưỡng, ô xy và đào thải các sản phẩm phân giải. Sự trao đổi
chất và năng lượng liên tục của cơ thể được phân chia ra làm hai quá trình. Quá trình
Đồng hóa là q trình hấp thụ các chất dinh dưỡng và ơ xy để tích lũy tiềm năng vật
chất của cơ thể; Q trình di hóa là q trình liên tục phân giải các chất hóa học
phức tạp đã hấp thụ được đào tạo thành năng lượng cho cơ thể sống và hoạt động.
Quá trình trao đổi chất của cơ thể được chia làm Ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Đưa các chất dinh dưỡng và ôxy vào cơ thể
- Giai đoạn 2: Các cơ quan- tổ chức hấp thụ các chất dinh dưỡng và ơ xy để
tích lũy và giải phóng năng lượng
- Giai đoạn 3: Đào thải các sản phẩm phân giải
Ô xy được đưa vào cơ thể bằng hệ hơ hấp và hệ tim mạch; cịn các chất dinh
dưỡng( đường- đạm- mỡ- muối khoáng- vitamin) vào cơ thể cùng thức ăn.
7


8


Quá trình trao đổi chất xảy ra mạnh và liên tục trong suốt cuộc đời con người;
Các tế bào luôn phân hủy và được sản sinh; trong 3 tháng cơ thể đã thay đổi gần ½
lường Prơtêin; ví dụ : sau 5 năm học, niêm mạc dạ dày của sinh viên đã thay đổi tới
500 lần. Sự trao đổi chất của cơ thể luôn xảy ra song song với sự trao đổi năng
lượng; sự cân bằng giữa năng lượng hấp thụ và năng lượng tiêu hao là chỉ số quan
trọng để đánh giá sự trao đổi năng lượng. Cân bằng dưỡng khi hấp thụ lớn hơn tiêu
hao, lúc này cơ thể éo lên, ưa vận động, nếu để cân bằng dương kéo dài sẽ bị bệnh
béo phì, sức khỏe giảm sút; cân bằng amaam sẽ làm sút cân, người mệt mỏi, giảm
khả năng vận động; nếu để kéo dài sẽ dẫn đến bệnh suy dinh dưỡng.
Quá trình tạo năng lượng cho cơ thể hoạt động được diễn ra theo 2 cách:
- Đốt chấy đường & mỡ: Khi cơ thể được cung cấp đủ Ơxy thì q trình tạo
ra nguồn năng lượng lớn ; máu đảm nhiệm việc vận chuyển chất dinh dưỡng và các
sản phẩm phân giải; cơ chế đốt cháy là nguồn năng lường chiếm ưu thế lúc yên tĩnh
khi vận động nhẹ, thời gian dài.
- Phân hủy các chất giàu năng lượng (khi cơ thể hoạt động trong điều kiện
nguồn cung cấp Ơxy khơng đáp ứng đủ): Cơ chế này tạo ra năng lượng nhanh,
khơng cần phải có Ôxy song lại tạo ra Axit lactic là chất tích tụ trong cơ làm ảnh
hưởng đến hoạt động của cơ( gây chuột rút).
Đường (Gluxit) là chất cung cấp năng lượng chính của cơ thể ( 1g đường
cung cấp 4,1Kcal). Đường được sử dụng mạnh ở não và cơ. Cơ thể ln được bão
hịa đường dưới dạng Glucoza chứa trong tất cả các mô của cơ thể; nguồn cung cấp
đường chủ yếu là các thức ăn có nguồn gốc thực vật. Trong máu , hàm lượng đường
glucoger luôn ổn định ở khoảng 80 – 120 mg %. Ngoài ra cơ thể còn dự trữ đường
dưới dạng Glucogen ở gan và cơ. Hàm lượng Glucogen dự trữ này khoảng300g. Ở
những vận động viên trình độ cao lượng Glucogen này lên tới 500g. Trong các hoạt
động thể lực và trí óc căng thẳng, lượng Glucoza tăng lên theo phản xạ giúp cho cơ
thể hoạt động tốt hơn và thích nghi nhanh hơn với hoạt động. Khi hoạt động căng
thẳng- kéo dài thì hàm lượng đường trong máu giảm xuống. Với người bình thường
nếu lượng đường giảm xuống tới 70 mg % thì hoạt động của não sẽ bị rối loạn và
nếu xuống tới 60 mg % thì não khơng hoạt động được nữa; nhưng với các VĐV có

trình độ cao thì vẫn tiếp tục thi đấu được thậm chí cả khi hàm lượng đường trong
máu xuống tới 40 mg %. Điều đó cho thấy rằng tập luyện thường xuyên, đúng
phương pháp đã nâng cao khả năng chịu đựng của cơ thể.
Mỡ ( lipit ) là chất dinh dưỡng cung cấp năng lượng rất cao ( 1g mỡ khi
phân giải cung cấp 9,3 Kcal); mỡ có nhiều trong cả thức ăn động vật và thực vật.
Trong cơ thể , mỡ cịn có chức năng bảo vệ cơ thể khỏi bị mất nhiệt, bảo vệ các cơ
quan nội tạng khi có va chạm cơ học. Mỡ còn tham gia cấu tạo màng tế bào. Khi
cung cấp năng lượng mỡ được sử dụng dưới dạng các Axit béo, và chủ yếu cho cơ
trơn; con cơ vân chỉ sử dụng mở để tạo năng lượng trong các hoạt động nặng – kéo
dài và khi lượng dự trữ đường đã cạn; 80 % năng lượng của cơ thể được cung cấp
8


9

bằng cách phân giải mỡ. Vì vậy việc tập luyện TDTT có tác dụng kích thích việc sử
dụng mỡ, chống được bện béo phì.
Đạm ( Prơtêin) là chất cấu tạo cơ bản của cơ thể. Song nếu bị đói kéo dài,
đường và mỡ dự trữ đã cạn thì đạm cũng có thể sử dụng để cung cấp năng lượng ( 1g
đạm khi phân giải cung cho 4,1 Kcal); Đạm không được dự trữ trong cơ thể, vì vậy
khi bị đói- đạm của cơ quan này sẽ được sử dụng để duy trì sự sống của cơ quan
khác quan trọng hơn.
Muối khống, vi tamin, nước: là những chất khơng sinh năng lượng.
Nước và muối khống chủ yếu để duy trì áp suất thể dịch của cơ thể và ổn định môi
trường bên trong cơ thể. Vitamin có tác dụng xúc tác các q trình chuyển hóa các
chất và nâng cao khả năng hoạt động của cơ thể, đặc biệt là các hoạt động thể lực.
2. Cơ thể con người là bộ máy vận động:
Vận động ;à điều kiện để cơ thể tồn tại và phát triển. Cơ thể con người
được cấu tạo và hoạt động giống như một bộ máy vận động. Bộ máy vận động của
cơ thể gồm có xương- cơ- dây chằng( là những bộ phận trực tiếp đảm nhiệm chức

năng vận động); các hệ cơ quan (hô hấp- tuần hồn& máu) đảm bảo cung cấp Ơxy
và vận chuyển các chất dinh dưỡng cho cơ tồn tại, phát triển và cung cấp năng lượng
cho cơ quan vận động hoạt động. Tất cả các hoạt động đều chịu sự điều khiển của hệ
thần kinh TW.
2.1 Bộ máy vận động: (Gồm xương, cơ, dây chằng& thần kinh điều khiển
hoạt động của cơ) trong đó xương, cơ, dây chằng là bộ phận trực tiếp thực hiện các
động tác.
- Bộ xương: (Gồm hơn 200 chiếc) Là giá đỡ thân thể và bảo vệ các cơ
quan nội tạng. Các xương liên kết với nhau tạo nên các khớp xương; trong khớp có
sụn và dịch nhầy; xung quanh khớp có dây chằng giữ cho khớp ổn định – vững chắc.
Mỗi khớp chỉ có khả năng hoạt động theo một hướng và mức độ nhất định nhưng
nếu được tập luyện thì mức độ linh hoạt của khớp sẽ tăng lên đáng kể song cấu trúc
giải phẫu mới là yếu tố quyết định đến việc lựa chọn động tác trong tập luyện.
- Cơ bắp: (có 3 loại là cơ trơn, cơ vân, cơ tim). Cơ trơn cấu tạo ở mạch
máu, các cơ quan nội tạng và ở da; cơ tim cấu tạo ở tim hai loại cơ này hoạt động
không theo ý muốn, chúng hoạt động rất bên bỉ. Cơ vân có đặc điểm là co nhanh
nhưng chóng mệt mỏi và hoạt động theo ý muốn.
- Thần kinh cơ: Để cơ có thể hoạt động thì phải có các xung thần kinh đi
đến cơ theo các sợi thần kinh. Các sợi TK đi đến cơ là các sợi nhành của tế bào thần
kinh vận động; thân của té bào nằm ở tủy sống hoặc não; một tế bào TK có thể có rất
nhiều nhánh đi đến nhiều sợi cơ. Tế bào TK và những sợi cơ mà nó điều khiển tạo
thành một đơn vị vận động. Đơn vị vận động có thể rất nhỏ, chỉ chứa vài sợi cơ,
nhưng cúng có thể rất lớn, chứa đến 2000 sợi cơ.
9


10

Sơ đồ cấu tạo đơn vị vận động
2.2 Máu và tuần hoàn máu:

a. Máu: là chất lỏng màu đỏ, lưu thơng trong hệ thống tuần hồn khép kín.
Máu là một mô liên kết đặc biệt gồm chất lỏng đặc biệt( huyết tương) và các tể bào
máu( huyết cầu). Có ba loại huyết cầu: Hồng cầu- bạch cầu và tiểu cầu.
- Hồng cầu: Là những tế bào khơng nhân hình đĩa lõm ở giữa, cấu tạo từ
một chất đạm đặc biệt gọi là huyết cầu tố(hemoglobin). Huyết cầu tố có khả năng kết
hợp với Ôxy thành một hợp chất và nhờ đó Ơxy được vận chuyển tới các tổ chức cơ
quan và khí cacbonic lại được chuyển từ các tổ chức cơ quan ra phổi,
- Bạch cầu: Chủ yếu thực hiện chức năng bảo vệ; chúng tiêu diệt các chất
lạ xâm nhập vào cơ thể .
- Tiểu cầu: nhỏ hơn hồng cầu và có vai trị qua trọng trong việc làm đông máu.
Các tế bào máu năm trong huyết tương, trong huyết tương cịn có các chất
dinh dưỡng, muối khống, các sản phẩm phân giải của quá trình trao đổi chất, các
nội tiết tố, các loại vi khuẩn và các kháng thể đối với các chất độc hại...
- Máu được tuần hoàn trong hệ mạch máu để đảm nhiệm các chức năng rất quan
trọng:
+ Chức năng dinh dưỡng: cung cấp các chất dinh dưỡng đến các mô cho
hoạt động sống của các tế bào
+ Chức năng điều khiển: các nội tiết tố và các chất khác có trong máu có
tác dụng điều hòa hoạt động của các cơ quan - tổ chức.
+ Chức năng bảo vệ: Nhở quả trình thực bào và quá trình miễn dịch của
bạch cầu.
10


11

+ Chức năng điều nhiệt: Màu làm nhiệm vụ vận chuyển nhiệt, làm cho cơ
thể khơng bị q nóng và sưởi ấm cho các bộ phận bị lạnh.
b. Hệ tuần hồn: (Gồm có Tim và hệ thống các mạch máu) Màu được di
chuyển trong hệ tuần hồn nhờ lực bóp của tim và sự nhu động của thành mạch máu;

máu được đảy từ tim vào các động mạch, sau đó chia nhánh nhiều lần, cuối cùng ở các cơ
quan và tổ chức là mao mạch (các mạch máu rất nhỏ có cấu tạo các màng bán thấm).
Tim là bộ phận quan trọng nhất của hệ tuần hoàn; cấu tạo như một cái
bơm để đảy máu đi và hút máu về; nhờ tim mà máu tuần hoàn trong cơ thể. Tim hoạt
động tự động song cũng chịu sự tác động gián tiếp của các cơ quan tổ chức khác đặc
biệt là hệ thần kinh. Tim được chia làm 4 ngăn, hai buồng phía dưới là tâm thất phải
và trái, hai buồng phía trên là tâm nhĩ phải và trái.
Sự tuần hồn diễn ra theo hai vòng:
Vòng lớn bắt đầu từ Tâm thất trái theo động mạch mang các chất dinh dưỡng
và Ôxy tới các tổ chức cơ quan sau đó theo tĩnh mạch trở về tâm nhĩ phải.
Vịng tuần hồn nhỏ từ Tâm nhĩ phải đổ xuống tâm thất phải rồi từ đó theo
theo động mạch đem khí cácbonic lên phổi đổi lấy Ôxy và trơ về tâm nhĩ trái; từ tâm
nhĩ trái màu lại đổ xuống tâm thất trái để chuẩn bị một vóng tuần hồn mới.

Sơ đồ vịng tuần hoàn
1. Động mạch chủ
2. Động mạch gan 3. Động mạch ruột 4. Lưới mao
mạch 5. Tĩnh mạch cửa 6. Tĩnh mạch gan 7. Tĩnh mạch chủ dưới 8. Tĩnh
mạch chủ trên 9. Tâm nhĩ phải 10. Tâm thất phải 11. Động mạch phổi 12.
Lưới mao mạch 13. Tĩnh mạch phổi 14. Tâm nhĩ trái
15. Tâm thất phải

11


12

Các chỉ số sinh lý đặc trưng của hệ tim mạch là: huyết áp- mạch đập- thể tích
tâm thu- thể tích phút.
- Mạch (tần số co bóp của tim): người bình thường khoảng 60- 80 lần/ phút;

người tập luyện thường xun có thể xuống 50 lần/ phút thậm chí các VĐV bơi,
chạy dài mạch xuống dưới 50 lần / phút (khi yên tĩnh)
- Huyết áp là áp lực của máu lên thành mạch. Khi tim co bóp, áp suất lên
đến 120mmHg và được gọi là h/a tối đa hay h/a tâm thu; khi tim giãn ra, áp lực ở
động mạch khoảng 70-80mmHg gọi là h/a tối thiểu hay là h/s tâm trương.
Khi tập luyện TDTT thì mạng lưới mạch máu dày đặc hơn, độ đàn hồi của
thành mạch lớn hơn nên sự tuần hồn của máu tốt hơn.
- Thể tích tâm thu:là lượng màu tâm thất trái đẩy ra trong mỗi lần co bóp.
- Thể tích phút l: là lượng máu tâm thất trái đảy đi trong một phút. Khoảng 5 –
6 lit khi yên tĩnh và khi vận động thì cả thể tích tâm thu và mạch đập đều tăng lên theo
cường độ vận động; ở VĐV thể tích tâm thu khi vận động có thể từ 30- 40 lít
C. Hệ hơ hấp:
Hơ hấp là tổ hợp các q trình sinh lý đảm bảo việc cung cấp Ơxy cho cơ thể
và đào thải khí Cacbonic do bộ máy hơ hấp và hệ tuần hồn đảm nhiệm.
Bộ máy hơ hấp gồm có : Mũi, Phế quản và quan trọng nhất là Phổi; phổi được
cấu tạo từ các phế nang, ( diện tích trải ra của phế nang khoảng 100 m2); thành các
phế nang mỏng, phía ngồi là mạng lưới các mao mạch dày đặc nên sự trao đổi khí
giữa phổi và máu rất thuận lợi.
Q trình hơ hấp được chia thành hơ hấp ngồi và hơ hấp trong. Hơ hấp ngồi
là q trình trao đổi khí giữa khơng khí ở phế nang và máu- sự vận chuyển các chất
khí trong máu ( ở phế nang ÔXY thấm qua thành phế nang vào máu, Cacbonic thấm
từ máu thải ra khơng khí ở phế nang). Hơ hấp trong cịn gọi là hơ hấp tế bào xảy ra
giữa máu và tổ chức cơ quan của cơ thể; ôxy sẽ đi từ máu qua dịch kẽ rồi váo tế bào
cịn khí Cacbonic thì ngược lại. Q trình hơ hấp thường được đánh giá bằng các chỉ
số sinh lý: Tần số hơ hấp- Thể tích hơ hấp- Thơng khí phổi- Dung tích sống- nhu cấu
Ơxy- Hấp thụ Ơxy.
Tần số hơ hấp: là số lần thở trong một phút; bình thường khoảng 16-20
lần/phút; khi vận động có thể tăng lên đến 30- 40 lần/phút.
Thể tích hơ hấp: Là lượng khơng khí đi qua phổi trong một lần thở; bình
thường khoảng 250- 700 ml; khi hoạt động nặng có thể lên tới 2- 2.5 lít.

Thơng khí phổi: là lượng khơng khí đi qua phổi trong một phút ( = Thể tích
hơ hấp X tần số hơ hấp)
Dung tích sống: Là lượng khơng khí tối đa mà người ta có thể thở ra sau khi
hít vào hết sức; dung tích sống phụ thuộc vào tuổi- giới tính- tình trạng sức khỏe12


13

trình độ tập luyện và nhiều yếu tố khác...; Bình thường khoảng 2.5- 3.5 lít cịn VĐV
có trình độ cao có thể tới 6- 7 lít.
Nhu cầu Ơxy: Là lượng Ôxy mà cơ thể cần trong một phút để đảm bảo sự
trao đổi chất; nó tương ứng với mức năng lượng tiêu hao của cơ thể.
Hấp thụ Ôxy là lượng Ôxy thực tế cơ thể đã sử dụng trong một phút; Vo2
max là khả năng hấp thụ Ôxy tối đa; ở người bình thường khoảng 2- 3.5 lít , ở các
VĐV các mơn thể thao sức bền có thể lên tới 6 lít.
d. Điều hịa sự hoạt động của cơ thể: Mọi sự hoạt động của cơ thể đều chịu
sự điều khiển của hệ thần kinh trung ương và cơ chế điều hòa thể dịch.
- Hệ thần kinh trung ương điều khiển sự hoạt động của các cơ quan bằng các
xung động thần kinh và việc tiếp nhận các tín hiệu từ bên ngoài và bên trong cơ thể;
hệ thần kinh hoạt động theo cơ chế phản xạ; mỗi một phản xạ của cơ thể xảy ra theo
một đường lan truyền hưng phấn cố định (cung phản xạ)

Sơ đồ cung phản xạ
- Cơ chế điều hòa thể dịch điều hòa hoạt động của các cơ quan thông qua các
chất chứa trong máu. Các chất hóa học đó có thể là nội tiết tố do các tuyến dịch tiết
ra- các chất khí- các sản phẩm trao đổi chất...
3.Cơ sở sinh lý của hoạt động thể lực:
3.1 Kỹ năng vận động: Là một hình thức hành động được hình thành theo cơ
chế phản xạ có điều kiện nhờ q trình tập luyện thường xuyên; hay nói cách khác
kỹ năng vận động là các động tác được thực hiện một cách tự động hóa do đã trở

thành thói quen như : đi, đứng, ngồi, chạy, nhảy là các kỹ năng vận động cơ bản của
mọi người. Tất cả các kỹ thuật Thể thao đều là những kỹ năng vận động.
Kỹ năng vận động được hình thành dần dần theo ba giai đoạn: Lan toả; Tập
trung; Tự động hóa.
- Giai đoạn lan toả: hưng phấn lan rộng trên vỏ đại não vì chưa hình thành
được một tổ hợp các phản xạ tối ưu; nhiều nhóm cơ khơng cần thiết cũng tham gia
vào vận động, động tác vì thế khơng chính xác, thiếu kinh tế, nhiều cử động thừa.( ví
dụ về người tập đi xe đạp)
- Sau một thời gian tập luyện, động tác được hoàn thiện dần tức là giai đoạn
lan toả đã chuyển dần sang giai đoạn tập trung; ở giai đoạn này, hưng phấn được tập
trung ở những vùng nhất định trên vở não cần thiết cho vận động, các động tác thừa
13


14

mất đi, cơ co duỗi hợp lý , động tác trở nên nhịp nhàng chính xác và thoải mái; kỹ
năng vận động đã được hình thành tương đối ổn định nhưng khi thực hiện động tác
người tập vẫn cần có sự tập trung nhất định nếu khơng rất có thể động tác sẽ lại bị
phá vỡ.
- Khi kỹ năng được thực hiện lặp lại nhiều , được củng cố đến mức khi thực
hiện bài tập, củ động của người tập hầu như tự động khơng cần có sự chú ý của ý
thức. Kỹ năng vận động ở giai đoạn này rất ổn định, sự tự động hóa kỹ năng vận
động cho phép có thể thực hiện chính xấc nhiều động tác khác nhau cùng một
lúc( vừa đi xe đạp vừa nói chuyện.....). Đỉnh cao của các kỹ năng vận động là các kỹ
xảo; ở một số động tác nhất định động tác kỹ thuật phát triển tới mức ngoại suy,
người ta có thể thực hiện động tác trong các tình huống rất phức tạp mà vẫn đạt kết
quả tốt: đi xe đạp bắt chéo tay, bỏ hai tay, nhấc bánh trước....
3.2. Các tố chất vận động:( Sức nhanh- sức mạnh- sức bền- khéo léo)
- Sức nhanh: Là khả năng thực hiện động tác với thời gian ngắn nhất; sức

nhanh có thể được biểu hiện bằng hình thức đơn giản( 1 là thời gian tiềm tàng của
phản ứng, đó là khoảng thời gian từ khi kích thích cho tới khi có phản ứng trả lời; 2
là thời gian của động tác đơn lẻ; 3 là tần số động tác) hoặc hình thức phức tạp là kết
quả của các thử nghiệm vận động và bài tập thể thao như chạy ngắn, tần số đánh
bóng, tốc độ đập bóng....Để thực hiện các hình thức sức nhanh thì các quá trình hưng
phấn và các q trình sinh hóa trong thần kinh và cơ phai xảy ra thật nhanh, các
trung tâm thần kinh phải có tính linh hoạt cao; trong hoạt động thể thao thì sức mạnh
và tốc độ có liên quan mật thiết với nhau; sự phát triển sức mạnh ảnh hưởng rất lớn
đến tốc độ. Trong quá trình tập luyện thì sức nhanh phát triện chậm và khó khăn hơn
nhiều so với sức mạnh và sức bền; sức nhanh phát triển tốt nhất là ở độ tuổi thanh
thiếu niên.
- Sức mạnh: Là khả năng khắc phục lực cản bên ngoài của cơ bắp; Sức mạnh
cơ bắp phụ thuộc vào đặc tính của các quá trình thần kinh điều khiển sự co cơ và số
lượng các đơn vị vận động chứa trong cơ. Để có thể thực hiện sức mạnh tối đa, cơ
phải được huy động với số lượng tối đa đồng thời sự hưng phấn cũng phải rất tập
trung để tránh các nhóm cơ đối kháng cùng tham gia vào một cử động. Sự cung cấp
dinh dưỡng cho cơ cũng có vai trị hết sức quan trọng để cơ phát húy sức mạnh. Cơ
sở sinh lý cơ bản để phát huy sức mạnh là cần phải có số lượng lớn cơ tham gia co
cùng một lúc đồng thời các cơ đối kháng thì lại thả lỏng (tăng cường sự phối hợp
giữa các nhóm cơ, muốn làm được điều đó phải có q trình tập luyện). Ngồi ra
luyện tập cịn làm sợi cơ phát triển ( tăng tiết diện ngang do tích lũy dĩnh dưỡng
chuẩn bị cho việc chuyển hóa thành năng lượng).
- Sức bền: Là khả năng thực hiện hoạt động trong một thời gian dài; đó là sự
thể hiện khả năng chống đỡ của cơ thể đối với những biến đổi bên trong xảy ra khi
hoạt động cơ bắp kéo dài. Sự phát triển của sức bền phụ thuộc vào mức độ hoàn
thiện của sự phối hợp chức năng vận động và chức năng dinh dưỡng; vào sự bền
14


15


vững chức năng của các cơ quan nội tạng, đặc biệt là cơ quan hô hấp và tim mạch;
sự phát triển sức bền phụ thuộc vào mức độ phát triển chức năng của hệ tuần hồn và
hệ hơ hấp; khả năng dự trữ năng lượng của cơ thể... Trong các hoạt động thể thao, có
các loại: Sức bền, Sức bền chuyên môn, Sức bền tốc độ, Sức bền mạnh.
- Khéo léo: Là khả năng thực hiện các động tác phức tạp về phối hợp vận
động trong điều kiện môi trường thay đổi. Cơ sở sinh lý của tố chất này là các phản
xạ phối hợp phức tạp, trạng thái của hệ thần kinh trung ương, tốc độ xử lý thông tin
và các chương trình hành động; ngồi ra tố chất khéo léo còn phụ thuộc vào mức độ
phát triển của các tố chất khác.
Sự tập luyện thể dục thể thao có hệ thống sẽ phát triển các tố chất vận
động, cơ chế phát triển của các tố chất có nhiều điểm tương đồng vì vậy khí tập để
hồn thiện một tố chất thì các tố chất khác ở một mức độ nào đó cũng sẽ biến đổi.
Tuy nhiên sẽ có một số bài tập phát triển tố chất này sẽ ảnh hưởng xấu tới tố chất
khác ( bài tập tạ để phát triển sức mạnh tuyệt đối sẽ ảnh hưởng tới sức bền trong
chày cự ly dài....); khi ngừng tập thì các tố chất cũng sẽ ngừng phát triển và dần thối
hóa trở về trạng thái ban đầu, sức nhanh là tố chất giảm nhanh nhất, sau đó đến sức
mạnh, sức bền; trong một ngày các tố chất vận động ở mức thấp nhất lúc mới ngủ
dậy và trước khi đi ngủ.
3.3 Chức năng vận động và sự thích nghi của cơ thể với mơi trường: Sự
thích nghi của cơ thể có ý nghĩa rất lớn đối với cuộc sống của con người; sự vận
động trong quá trình GDTC là nhăm làm cho cơ thể thích nghi với các hoạt động cơ
bắp, tăng cường sự phối hợp hoạt động của tất cả các bộ phận chức năng của cơ thể;
tất cả các biến đổi thích nghi trong q trình tập luyện TDTT đã tác động mạnh mẽ
tới q trình thích nghi của cơ thể với những biến đổi của môi trường xung quanh.
CHƯƠNG IV
CÁC PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT
1.

Cơ sở cấu trúc của các phương pháp Giáo dục thể chất:


1.1 Lượng vận động và quãng nghỉ là các thành tố của phương pháp
giáo dục thể chất:
- Lượng vận động trong các bài tập thể lực là mức độ tác động của chúng tới
cơ thể người tập; sự tiêu hao năng lượng trong vận động cũng như sự mệt mỏi chính
là nguyện nhân tạo nên sự hồn thiện cơ thể bằng vận động. Những mệt mỏi sau vận
động không mất đi mà cịn để lại “dấu vết”, q trình tích lũy “dấu vết ”đó sẽ làm
phát triển trình độ tập luyện; hiệu quả của các bài tập tỷ lệ thuận với khối lượng và
cường độ vận động, ( thường thì khối lượng vận động và cường độ vận động có tác
động lên cơ thể tỷ lệ nghịch, khi cường độ vận động lớn thì người tập chỉ thực hiện
trong thời gian ngắn- khối lượng vận động đạt được nhỏ như chạy cự lý ngăn và
ngược lại như chạt cự lý dài)
15


16

- Người ta phân biệt lượng vận động bên trong và lượng vận động bên ngoài:
lượng vận động bên trong là mức độ biến đổi về sinh lý- sinh hóa trong cơ thể khi
thực hiện bài tập; thường thì lượng vận động bên ngoài và lượng vận động bên trong
tương xứng với nhau, cường độ và khối lượng vận động càng lớn thì biến đổi trong
cơ thể càng mạnh...nhưng cơ thể ln có sự biến đổi thích nghi và hơn nữa cơ thể
chịu tác động của lượng vận động trong các trạng thái khác nhau nên cùng một
lượng vận động thì cúng có những phản ứng khác nhau của cơ thể. Việc lập kế hoạch
và điều chỉnh lượng vận động là nội dung cơ bản trong xây dựng phương pháp giáo
dục thể chất; song hiệu quả của tập luyện còn phụ thuộc vào trật tự kết hợp một cách
khoa học giữa lượng vận động và qng nghỉ. Có hai hình thức nghỉ ngơi( nghỉ thụ
động và nghỉ ngơi tích cực)
- Căn cứ vào mức độ hồi phục sau vận động , người ta chia ba loại quãng
nghỉ: Đầy đủ- Ngắn- Vượt mức. Nghỉ đầy đủ là quãng nghỉ đủ cho lượng vận động

tiếp theo ở vào thời điểm khả năng vận động hồi phục về mức ban đầu; Nghỉ ngăn là
lượng vận động được lặp lại khi các chức năng riêng lẻ hoặc toàn bộ cơ thể chưa
được hồi phục dầy đủ; Vượt mức là quãng nghỉ đủ để lượng vận động lặp lại ở vào
thời điểm cơ thể được hồi phục vượt mức.
Chính vì vậy người ta đã phải áp dụng rất nhiều phương pháp tập luyện khác
nhau để tăng hiệu quả của việc tập luyện thể dục thể thao.
1.2 Những cách thức tiếp thu và định mức hoạt động vận động: Có hai
cách thức tiếp thu động tác là tiếp thu từng phần và tiếp thu toàn thể;( tùy theo mức
độ phức tạp hay đơn giản của từng bài tập); Trong quá trình lịch sử đã hình thành
các hình thức định mức hoạt động khi thực hiện các bài tập thể lực là thể dục – thể
thao – trò chơi. Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trò chơi-thể dục-thể thao được
tách biệt thành các xu hướng phương pháp độc đáo của Giáo dục thể chất; ngày nay
bất kỳ một hệ thống giáo dục thể chất nào cũng bao gồm hệ thống phương tiện –
phương pháp giáo dục- thể thao và trò chơi. Căn cứ vào đặc điểm định mức hoạt
động các phương pháp Giáo dục thể chất được chia thành hai loại: phương pháp bài
tập định mức và các phương pháp thi đấu và trò chơi.
2. Các phương pháp giáo dục thể chất:
2.1 Các phương pháp tập luyện có định mức chặt chẽ: Là nhóm phương
pháp hoạt động của người tập được tổ chức và điều chỉnh một cách chi tiết sự định
mức được thể hiện ở những điểm :
- Định trước chương trình các động tác(quy định trước thành phần các ĐT, trật
tự lặp lại....)
- Định lượng chính xác và điều khiến diễn biến lượng vận động; xác định
chính xác quãng nghỉ và trật tự luận phiên lượng vận động.

16


17


- Tạo ra hoặc sử dụng điều kiện bên ngoài hỗ trợ cho việc điều khiển hành
động của người tập( tổ chức và phân cơng vị trí tập luyện cho các nhóm tập, sử dụng
các dụng cụ , thiết bị ký thuật tập luyện...)
Phương pháp tập luyện có định mức chặt chẽ có rất nhiều phương án cụ
thể; việc lưa chọn các phương pháp đó phụ thuộc vào nội dung buổi tập, từng thời kỳ
trong quá trình giáo dục thể chất.
2.1.1 Phương pháp phân chia và phương pháp nguyên vẹn động tác trong
trong tập luyện kỹ thuật thể thao:
- Phương pháp phân chia: được sử dụng trong trong trường hợp động tác – tổ
hợp các động tác có thể tách nhở thành các phần tương đối độc lập mà không làm sai
lệch đáng kể cơ cấu chung. ( ví dụ về việc tập mô phỏng kỹ thuật nhảy cao kiểu năm
nghiêng có thể tập theo trình tự: Xác định chân dậm nhảy-Mô phỏng ĐT đá lăng kết
hợp đánh tay-Mô phỏng ĐT bật nhảy kết hợp đá lăng đánh tay-Mô phỏng ĐT bật
nhảy kết hợp đá lăng quay tiếp đất..... )
- Phương pháp nguyên vẹn: Khi chia nhỏ ĐT bị biến động lớn về cấu trúc nên
người ta phải thực hiện bằng việc đơn giản hóa cấu trúc ĐT bẵng cách lược bỏ các
phần tương đối độc lập, sau đó mới lại ghép dần chúng lại và hoàn thiện chúng trên
cơ sở thực hiện tồn vẹn ĐT ( ví dụ tập nhảy cao kiểu úp bụng trình tự tập là: Chạy
đà ngắn dậm nhảy kết hợp đá lăng qua xà thấp; Chạy đà ngắn dậm nhảy kết hợp đá
lăng qua xà kết hợp mở hông bên chân dậm nhảy và tiếp đất bằng tay- vai- chân bên
chân lăng qua xà thấp ...Thực hiện toàn bộ ĐT với đà ngắn mức xà thấp; Tập nâng
dần xà...)
2.1.2 Phương pháp tập ổn định và phương pháp tập biến đổi trong giáo dục tố
chất vận động:
- Phương pháp tập ổn định theo chế độ vận động liên tục và ngắt quãng: được
sử dụng trong giáo dục tất cả các tố chất vận động; trong đó phương pháp tập ổn
định liên tục thường được sử dụng nhiều trong giáo dục sức bền( phương pháp tập
đồng đều); còn phương pháp tập ổn định ngắt quãng sử dụng nhiều trong giáo dục
sức mạnh(tạ) sức nhanh( chạy cự lý 200m).
- Phương pháp tập biến đổi theo chế độ lượng vận động liên tục và ngắt

quãng: Ở đây sự biến đổi là có chủ đích để mở rộng tính linh hoạt của các kỹ xảo,
mở rộng khả năng điều chỉnh động tác, tạo khả năng phối hợp vận động một cách
tinh tế và hiệu quả. Phương pháp tập biến đổi liên tục thường được áp dụng trong
các bài tập có tính chu kỳ ( điển hình là phương pháp chạy biến tốc trên cự ly
dài)...Các phương pháp tập biến đổi ngắt quãng là sự luân phiên có hệ thống giữa
vận động và nghỉ ngơi ( Phương pháp tăng tiến là điển hình của nhóm này)
2.1.3 Phương pháp tổng hợp:

17


18

Trong thực tế thì tất cả các phương pháp ln được phối hợp với nhau
thành những bài tập tổng hợp cho phù hợp với mục đích và nội dung của các buổi
tập; Các bài tập tổng hợp rất đa dạng do sự kết hợp đan xen giữa các phương pháp và
cả về lượng vận động và quãng nghỉ..
2.2. Phương pháp trò chơi và phương pháp thi đấu:
2.2.1 Phương pháp trò chơi: Là một hiện tượng phổ biến trong xã hội; phương
pháp này không nhất thiết phải gắn với một môn thể thao hay trị chơi cụ thể nào mà
nó sẽ sử dụng cơ sở của bất kỳ bài tập thể lực nào và được tổ chức lại cho phù hợp
với buổi tập; chúng những đặc điểm: tổ chức theo chủ đề, phong phú về phương thức
đạt tới mục đích và tính tổng hợp của hoạt động, phát huy tính tự lập- chủ động sáng
tạo và khả năng khéo léo linh hoạt của người chơi, tạo nên sự đua tranh căng thẳngtạo nên nhiều cảm xúc- gây hứng thú tập luyện , tính chương trình của buổi tập –
tính chính xác của lượng vận động bị hạn chế .
2.2.2 Phương pháp thi đấu: Tho đấu có ý nghĩa quan trọng như một phương
thức tổ chức và kích thích hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống như
sản xuất, nghệ thuật, thể thao....
Trong Giáo dục thể chất, phương pháp thi đấu được sử dụng cả ở hình thức
đơn giản( trong buổi tập để kích thích hưng phấn và động viên tính tích cực trong

việc thực hiện nhiệm vụ của người tập) và hình thức phức tạp( thi đấu kiểm tra, các
giải thi đấu ..). Đặc điểm của thi đấu là thể hiện sự đua tranh trong những luật lệ nhất
định; nó tạo nên những cảm xúc mạnh mẽ và người tập phải thực hiên bài tập trong
những điều kiện phức tạp; ngồi ra trong thi đấu động đội cịn địi hỏi các phẩm chất:
tinh thần tập thể, tính trách nhiệm, sự hợp tác, đạo đức tác phong....Thi đấu là
phương pháp hoàn thiện cao nhất tất cả các phẩm chất của con người( Đạo đức tác
phong, lối sống, kỹ năng – kỹ xảo và khả năng tư duy chiến thuật thể thao...)
2.3 Các phương pháp sử dụng lời nói và các phương tiện trực quan:
2.3.1 Phương pháp sử dụng lời nói:
+ Giáo viên:
- Giảng giải kỹ chiến thuật, luật thi đấu, các phương pháp tập luyện...
- Giải thích bổ xung...(cùng với các giáo cụ trực quan hoặc các thị phạm ĐT
mơ phỏng hoặc phân tích cảm giác của các bộ phận cơ thể khi thực hiện ĐT)
- Chỉ thị và mệnh lệnh
- Nhận xét đánh giá
+ người học:
- Giải thích cho nhau
- Tự nhủ, tự đặt nhiệm vụ
18


19

2.3.2 Phương pháp trực quan:
- Thị phạm động tác
- Tranh ảnh, phim, video,...
- Mơ hình, sa bàn....
- Các cơng cụ tái tạo cảm giác ( máy gõ nhịp, máy ghi âm, tiếng cịi, đèn
hiệu....) thậm chí cả những tác động trực tiếp vào cơ thể người tập( vỗ mạnh vào
người tập ở các vị trí cần có cảm giác, nắn trực tiếp các tư thế...)

- Đinh hướng theo các vật chuẩn, % lực sử dụng để thực hiện ĐT,...
CHƯƠNG V
CÁC NGUYÊN TẮC VỀ PHƯƠNG PHÁP GIÁO DỤC THỂ CHẤT
1. Nguyên tắc tự giác tích cực: Q trình giáo dục phải tạo được cho người
tập một thái độ học tập tốt, sự cố gắng nắm bắt được những kỹ năng- kỹ xảo và
những hiểu biết liên quan; sự tự giác – tích cực được thể hiện trong q trình giáo
dục thể chất :
- Hình thành hứng thú bền vững đối với mục đích tập luyện nói chung và đối
với nhiệm vụ cụ thể của từng buổi tập.
- Xác định được mục tiêu , nhiệm vụ và phương thức tập luyện của buổi
tập( cần phải tập gì, tập như thế nào, tại sao phải tập ĐT này chứ không phải là ĐT
khác, vì sao phải tuân theo nguyên tắc như thế này chứ khơng phải như thế kia)
- Hình thành việc phân tích một cách có ý thức các hoạt động tập luyện, thói
quen kiểm tra mức độ hợp lý của việc sử dụng sức với chất lượng của ĐT
- Giáo dục tính tự lập, khả năng sáng tạo trong q trình giải quyết các nhiệm
vụ tập luyện
2. Nguyên tắc trực quan: Trực quan trong giảng dạy là quá trình sử dụng rất
nhiều loại cảm giác, sự thụ cảm của nhiều cơ quan cảm giác của cơ thể để có thể tiếp
xúc trực tiếp nhiều mặt với hiện thực xung quanh. Tính trực quan có vai trị đặc biệt
quan trọng trong Giáo dục thể chất vì hoạt động của người tập về cơ bản là mang
tính thực hành và yêu cầu chuyên mơn của nó là phát triển tồn diện các cơ quan
cảm giác.Điều quan trọng là hoạt động của các cơ quan cảm giác khác nhau phải bổ
xung cho nhau để làm chính xác hơn “hình ảnh” của động tác; sự chính xác và sinh
động của hình ảnh của ĐT sẽ làm cho kỹ năng và kỹ xảo hình thành nhanh hơn, các
tố chất thể lực và phẩm chất ý chí biểu hiện cũng hiệu quả hơn.
3. Nguyên tắc thích hợp và cá biệt hóa: tính chủ đạo của ngun tắc này là
tính đến đặc điểm của từng người tập và mức độ của những nhiệm vụ học tập đề ra
đối với họ. Các bài tập có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các cơ quan chức năng quan
trọng của cơ thể; chỉ cần lượng vận động vượt quá mức chịu đựng của cơ thể thì sẽ
19



20

nảy sinh nguy cơ đối với sức khỏe người tập, gây hậu quả khơng tốt. Nên q trình
Giáo dục thể chất phải chú trọng đến mức độ thích hợp của lượng vận động đối với
các cá nhân người tập; lựa chon được các phương pháp tiếp cận các hình thức tập
luyện phù hợp để người tập vừa đảm bảo giải quyết đực nhiệm vụ tập luyện vừa đảm
bảo được sức khỏe.
4. Nguyên tắc hệ thống: là tính thường xuyên trong tập luyện và hệ thống
luân phiên giữa lượng vận động và nghỉ ngơi, tính tuần tự trong tập luyện và mối
liên hệ lẫn nhau giữa các mặt khác nhau trong nội dung tập luyện và Giáo dục thể
chất chính là một quá trình liên tục bao gồm tất cả các thời kỳ cơ bản trong cuộc
sống; tập luyện hợp lý sẽ gây nên những biến đổi dương tính về cấu trúc và chức
năng của cơ thể nhưng chỉ cần ngừng nghỉ tập trong một thời gian tương đói ngắn là
những mối liên hệ của phản xạ có điều kiện vừa mới xuất hiện đã bắt đầu mờ tắt đi,
mức độ phát triển các khả năng chức phận vừa đạt được cùng với các chỉ số về thể
hình cũng bắt đầu giảm.
5. Nguyên tắc tăng dần yêu cầu: việc đề ra các nhiệm vụ trong q trình giáo
dục thể chất có liên quan trực tiếp với khối lượng và cường độ vận động của người
tập trong khí cơ thể ln có sự biến đổi để thích nghi và phát triển( sự quen dần với
các tác động của các bài tập ) nên với các chương trình giáo dục thể chất cần thường
xuyên đổi mới nhiệm vụ theo xu hướng tăng dần lượng vận động, độ khó của kỹ
chiến thuật, tăng tỷ lệ sử dụng sức khi thực bài tập và tăng thời gian tác động của bài
tập (nhưng phải tuân thủ ngun tắc thích hợp và cá biệt hóa ).Một vấn đề cũng hết
sức quan trọng là nhiệm vụ tăng lên phải đảm sự phong phú, đa dạng không gây
nhàm chán( ví dụ một buổi học có thể có từ một đến nhiều kỹ thuật với những yêu
cầu khác nhau hoặc trong một buổi học có thể áp dụng nhiều phương pháp tập khác
nhau).
6. Mối quan hệ lẫn nhau của các nguyên tắc về phương pháp: Các nguyên

tắc giáo dục thể chất liên quan chặt chẽ và có phần trùng nhau; đó là vì tất cả các
ngun tắc đó phản ánh các mặt riêng lẻ và các quy luật của cùng một quá trình mà
về bản chất là thống nhất. Nguyên tắc tự giác tích cực là tiền đề chung để thực hiện
tất cả các ngun tắc khác; khơng có bất cứ nguyên tắc nào có thể thực hiện được
dạy đủ nếu loại trừ, đối lập với các nguyên tắc khác; như vậy là có một nguyên tắc
lớn nhất là phải biết kết hợp hài hòa tất cả các phương pháp và tuân thủ các nguyên
tắc về phương pháp một cách đầy đủ thì quá trình giáo dục thể chất mới đạt hiệu quả
cao.
CHƯƠNG VII
KIỂM TRA VÀ TỰ KIỂM TRA Y HỌC TRONG QUÁ TRÌNH GIÁO
DỤC THỂ CHẤT.
Tập luyện các bài tập giáo dục thể chất và thể thao có những tác dụng to lớn
và phức tạp đối với cơ thể, góp phần tích cực tăng cường sức khoẻ, phát triển thể lực
20


21

và nâng cao khả năng làm việc, trong điều kiện q trình tập luyện được tổ chức và
tiến hành thích hợp, dựa trên các nguyên tắc giáo dục thể chất và phù hợp với đặc
điểm y – sinh học của người tập. Kiểm tra và tự kiểm tra y học đối với người tập
trong quá trình giáo dục thể chất là những biện pháp rất cần thiết để đảm bảo hiệu
quả giáo dục nâng cao sức khoẻ, ngăn ngừa các tác động xấu có thể xẩy ra.
Kiểm tra y học là một bộ phận của y học và là thành phần hữu cơ của hệ thống
giáo dục thể chất. Kiểm tra y học trong quá trình giáo dục thể chất nghiên cứu trạng
thái sức khoẻ, mức độ tập luyện của người tập dưới tác động của q trình tập luyện.
Nó cho phép giáo viên cũng như bản than người tập có thể phát hiện kịp thời những
biến đổi trong cơ thể và trên cơ sở đó, tiến hành lập kế hoạch tập luyện chính xác và
tăng cường sức khỏe.
Nhiệm vụ chính của cơng tác kiểm tra y học là đảm bảo tính đúng đắn và hiệu

quả của tất cả các hình thức và phương tiện giáo dục thể chất để phát triển hài hoà,
củng cố và tăng cường sức khỏe người tập, góp phần xác định lượng vận động đối
với học sinh. Để thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, công tác kiểm tra y học phải được
tiến hành thường xuyên trong quá trình giảng dạy và huấn luyện.
Trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp kiểm tra y
học có thể được tiến hành bằng những hình thức sau:
- Kiểm tra y học thường kỳ đối với tất cả những người tham gia tập luyện thể
dục thể thao.
- Theo dõi y học – sư phạm đối với người tập trong quá trình giáo dục thể
chất.
- Kiểm tra vệ sinh sân bãi, dụng cụ và các điều kiện tập luyện khác.
- Đề phòng và điều trị bước đầu các chấn thương và trạng thái bệnh lý
- Đảm bảo y tế cho các hình thức thể thao quần chúng và các cuộc thi đấu
thể thao.
- Tuyên truyền và phổ biến các kiến thức y học TDTT trong nhà trường.
1. TỔ CHỨC VÀ NỘI DUNG CỦA KIỂM TRA Y HỌC TRONG NHÀ
TRƯỜNG
Tất cả các học sinh, sinh viên tham gia tập luyện TDTT theo chương trình
giáo dục thể chất chinh khoá, ngoại khoá hoặc tự tập đều phải tra y học bước đầu
trước khi tập luyện (vào đầu năm thứ nhất) để phân loại sức khoẻ và kiểm tra định
kỳ ít nhất 1 lần mỗi năm đới với nhóm cơ bản và 2- 4 lần đối với nhóm yếu và nhóm
nâng cao. Kiểm tra định kỳ là để xác định những biến đổi trong cơ thể người tập
nhằm đánh giá hiệu quả của quá trình giáo dục, huấn luyện và đề ra những thay đổi
cần thiết trong chương trình tập luyện tiếp theo.

21


22


Trước các cuộc thi đấu hoặc sau khi người tập bị đau ốm, chấn thương, giáo
viên có thể cho tiến hành kiểm tra y học bổ sung để xác định lại trạng thái sức khoẻ
và trình độ thể lực ở thời điểm hiện tại, cho phép hoặc không cho phép tham gia thi
đấu và luyện tập.
Nội dung kiểm tra y học chung thường bao gồm:
1)
Hỏi về tiểu sử bản than, gia đình và quá trình tập luyện để nắm vững
các thơng tin về tuổi, giới tính, nghề nghiệp, đặc điểm phát triển thể lực, điều
kiện sống và làm việc, thời gian và tính chất tập luyện TDTT v.v…
2)

Kiểm tra sự phát triển thể lực

3)

Kiểm tra chức năng của các cơ quan.

4)

Thử nghiệm chức năng với lượng vận động định lượng

Các nội dung kiểm tra y học nêu trên do giáo viên, huấn luyện viên kết hợp
với các bác sĩ tiến hành. Khi cần thiết, có thể có cả các bác sĩ chuyên khoa và các
chuyên gia chẩn đoán chức năng y học thể thao cùng tham gia.
2. KIỂM TRA VÀ ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN THỂ LỰC
Sự phát triển thể lực là một trong những yếu tố quan trọng của tình trạng sức
khỏe và trạng thái chức năng của cơ thể. Sự phát triển thể lực thường được đánh giá
thông qua mức độ phát triển của các tổ chức xương, cơ, hình dáng, kích thước của
các bộ phận cơ thể và các chức năng cơ bản bằng các phương pháp quan sát, đo đạc,
thử nghiệm chức năng v.v…

Phương pháp quan sát dung để đánh giá trạng thái da, bộ xương, mức độ
phát triển của cơ và lớp mỡ mô dưới da. Khi quan sát cần phải xác định hình dáng
lồng ngực, lưng, bụng và tứ chi. Tất cả các yếu tố nêu trên tạo nên thể hình của
người tập.
Hình dáng lồng ngực có thể có thể có các hình dạng ống, hình phễu và phẳng
dẹt. Hình dáng lồng ngực xác định theo vị trí bên dưới của sương sườn, tỉ lệ chiều
dày và chiều rộng của lồng ngực (xem hình)

Hình dáng lồng ngực
a. Lồng ngực hình phễu

b. Lồng ngực hình ống c. Lồng ngực phẳng dẹt
22


23

Người có sự phát triển thể lực tốt lồng ngực thường có hình dạng ốn, sương
sườn nằm ngang, hai bờ dưới xương sườn kết hợp với xương ức tạo thành một góc
gần 90 độ, tỷ lệ chiều dày và chiều rộng của lồng ngực lớn hơn 70 .Lồng ngực giữa
như vậy thường gặp ở những người bị giãn phế quản, hen mãn tính…Người mà sự
phát triển thể lực yếu có lồng ngực hình phẳng dẹt, sương sườn sệ xuống, hai bờ
xương sườn tạo thành một góc nhọn, ngự nhơ ra trước, chiều lồng ngực hẹp, chức
năng hơ hấp thường thấp.
Hình dáng lưng có thể bình thường phẳng hoặc cong vẹo. Hình dáng lưng
bình thường có những đoạn cong tự nhiên theo chiều trước sau ở đoạn thắt lưng và
ngực không quá 3cm so với trục thẳng đứng của cột sống. Lưng cong quá 3cm ra
trước gọi là ưỡn và quá 3cm ra sau gọi là gù (xem hình).

Hình dáng lưng

a. Bình thường

b. Cong gù

c. Phẳng

Lưng có hình dáng phẳng khi các đoạn cong tự nhiên không rõ, cột sống như nằm trên
một mặt phẳng. Bình thường cột sống khơng có các đoạn cong theo trục phải trái, cột
sống có thể cong vẹo sang bên phải, bên trái với dạng chữ C (thuận hay ngược), S
(thuận hay ngược). Đơi khi có thể bắt gặp động thời nhiều loại cong vẹo cột sống theo
cả hai trục trước sau và phải trái. Các hình dáng lưng cong vẹo là kết quả của nhiều loại
bệnh, trạng thái chức năng chung của cơ thể kém và còn do thiếu vận động, cũng như
học tập, làm việc với tư thế không đúng. Giáo dục thể chất, nhất là tập luyện thể thao là
một biện pháp có hiệu quả cao để đề phòng và điều trị cong vẹo cột sống.
Hình dáng bụng phụ thuộc vào sự phát triển của cơ thành bụng và lớp mỡ
dưới da ở vùng bụng. Những người có sự phát triển thể lực tốt trên vùng bụng nổi rõ
hình các cơ bụng, thành bụng hơi thụt vào, lớp mỡ dưới da mỏng. Những người ít
hoạt động thể lực bụng phệ, lớp mỡ dưới da dày, cơ bụng phát triển yếu.
Hình dáng chân và cung bàn chân. Hình dáng chân có thể bình thường hoặc
chân hình chữ O, dạng vịng kiềng hay hình chữ X - dạng chữ bát.
23


24

Chân có hình dáng bình thường khi đứng thẳng hai chân tiếp xúc với nhau ở
các điểm 2 mắt cá trong, hai cạnh trong của khớp gối và cạnh trong của đùi. Khi
chân có hình chữ O, thì hai cạnh trong của chân không tiếp xúc với nhau. Nếu
khoảng cách đó hơn 5cm thí có thể coi là loại nặng. Chân hình chữ X khi đứng thẳng
hai mắt cá trong không tiếp xúc với nhau nhưng hai đầu gối chạm nhau (xem hình)


Hình dáng chân
a. Bình thường

b. Hình chữ X

c. Hình chữ O

Chân hình chữ O hoặc chữ X có thể là kết quả của một số bệnh tật đã mắc
phải, như còi xương, do cơ bắp phát triển yếu hoặc do khi còn trẻ phải làm việc nặng
quá sớm, không tương ứng với các mức độ phát triển của bộ xương.
Hình dáng bàn chân có thể bình thường hoặc bàn chân bẹt. Hình dáng bàn
chân có thể xác định bằng cách quan sát và in dấu bàn chân. Bình thường mặt dưới
bàn chân có độ cong tự nhiên, khi in dấu bàn chân tỉ lệ giữa phần cong so với phần
tiếp xúc với mặt đất là 2/1. Nếu vòm bàn chân sụt xuống thì hình bàn chân được gọi
là bàn chân bẹt, tỉ lệ giữa phần cong và phần tiếp xúc với đất trên hình in sẽ ít hơn
2/1 (xem hình).

Hình dáng bàn chân
a. Bình thường

b và c. Bàn chân bẹt các mức độ khác nhau
24


25

Các phương pháp nhân trắc hay còn gọi là phép đo người, bổ sung cho
phương pháp quan sát và cung cấp những số liệu khách quan, chính xác về sự phát
triển thể lực, độ tương ứng của thể lực với tuổi, giới tính cũng như những sai lệnh về

phát triển thể lực có thể xảy ra dưới tác động của tập luyện TDTT không hợp lý.
Các phương pháp đo người cần phải được tiến hành vào cùng một thời gian
trong ngày, tốt nhất là vào buổi sang, theo một phương pháp tiêu chuẩn, đã được
kiểm tra độ chính xác. Người được kiểm tra phải mặc quần áo lót ngắn để khơng làm
ảnh hưởng đến độ chính xác của phép đo.
Trong kiểm tra y học, để đánh giá sự phát triển thể lực ít nhất cần phải đo các
chỉ số sau: chiều cao đứng và ngồi, cân nặng, vòng ngực, vòng bụng, vòng cổ, vòng
cánh tay, cẳng tay, vòng đùi và cẳng chân, chiều rộng vai, chiều rộng hơng, dung
tích sống, lực kéo lưng, lực bóp tay, độ dày lớp mỡ dưới da.
Chiều cao đứng và ngồi được đo bằng thước đo chiều cao, có độ chuẩn đến
0,5cm. Chiều cao đứng được đo từ mặt đất tới đỉnh đầu. Người được đo đứng ở tư
thế đứng nghiêm, lưng quay về phía thước đo và tiếp xúc với thước đo ở 3 điểm: gót
chân, mơng và lưng. Đầu thẳng sao cho góc ngoài của mắt và lỗ tai ngoài nằm trên
một đường thẳng ngang (xem hình).

Đo chiều cao đứng và ngồi
Khi đo chiều cao ngồi người được đo ngồi ngay ngắn trên ghế có chiều cao
vừa đủ để khi ngồi bàn chân chạm đất cẳng chân vng góc với đùi lưng và mơng
tiếp xúc với thước đo. Chiều cao ngồi được tính từ mặt ghế tới đỉnh đầu, chiều cao
đứng trừ đi chiều cao ngồi có thể cho ta số đo chiều dài chi dưới (hình 8).

25


26

Khi đo chiều cao cần phải chú ý rằng chiều cao của cơ thể có thể thay đổi
trong ngày, buổi chiều tối chiều cao có thể giảm đi 1-2cm, sau các hoạt động thể lực
nặng, chiều cao có thể giảm đi 3-5cm.
Theo hằng số sinh học của người Việt Nam (1967) chiều cao đứng của người

Việt Nam là: nam 158,9cm ± 4cm và nữ 149,5cm ± 3cm.
Cân nặng (trọng lượng cơ thể) có ý nghĩa quan trọng để đánh giá sự phát triển
thể lực và tình trạng sức khoẻ của người tập. Đặc biệt là trong các môn thể thao có
quy định hạng cân như vật, võ, quyền Anh v.v…trọng lượng cơ thể chỉ là chỉ số
quyết định quyền thi đấu của VĐV.
Cân nặng chỉ là chỉ số dễ biến đổi và chịu tác động của các yếu tố khác nhau.
Sau một buổi tập nặng, cân nặng có thể giảm tới 2-3kg. Cân nặng được đo bằng cân
y tế với độ chính xác là 50kg.
Các số đo vịng được đo bằng thước đo mềm.
Vòng cổ được đo ngang sụn giáp trạng của thanh quản, sát đáy chữ V của sụn
giáp trạng.
Vòng ngực được đo ở ba trạng thái: vòng ngực bình thường, vịng ngực hít
vào hết sức và vịng ngực thở ra hết sức. Thước dây được đặt trên lồng ngực phía
lưng ngang với góc dưới xương bả vai, phía ngực ngang qua mũi ức của xương ức.
Khi đo cần chú ý để người được đo không căng cơ và nâng vai khi hít vào, khơng cúi
khom lưng khi thở ra hết sức được gọi là độ linh hoạt của lồng ngực hay hiệu số giãn
ngực. Trung bình hiệu số này vào khoảng 5-7cm. Ở các VĐV các môn thể thao sức
bền hệ số này có thể lên tới 10 -12cm.
Vòng bụng được đo ở hai trạng thái căng cơ và thả lỏng cơ.
Vòng cánh tay đo ở phần cẳng tay lớn nhất khi cơ thả lỏng.
Vòng đùi và vòng cẳng chân đo khi người được đo đứng ở tư thế chân rộng
bằng vai trọng lượng cơ thể phân bố đến hai chân, cơ chân thả lỏng. Vòng đùi đo ngay
dưới nếp lằn mơng. Vịng cẳng chân đo ngay qua phần to nhất của cẳng chân.
Các chiều rộng, chiều dầy của các bộ phận cơ thể được đo bằng compa nhân trắc
(xem hình).

26



×