Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Anh văn để hội nhập với thế giới pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.88 KB, 14 trang )

Anh văn để hội nhập với thế giới


I. Văn phạm rất cần thiết
Không có một ngôn ngữ nào không cần sự hiểu thấu về văn phạm để hành
văn cho chuẩn và đem lại niềm vui cho đọc giả. Sau khi đã hiểu thấu văn
phạm rồi thì tác giả lại phá rào, chơi chữ để có thể đưa ý sâu hơn, để tả
những bức tranh ngoạn mục hơn. Người bản xứ nào cũng đánh giá sự thông
minh và tài năng của con người không chỉ qua cách dùng từ, hành văn mà
còn về cả văn phạm. Ở các xứ nơi tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ củng vậy! Nhìn
họ chế nhạo nguyên thủ quốc gia của họ thì ta cũng biết.

II. Học Anh văn ở Mỹ
1. Viết và đọc
Tôi còn nhớ rất nhiều quá trình dùng và học Anh ngữ của các con tôi từ lúc
sinh ra và lớn lên ở xứ bạn. Bắt đầu từ “Sữa”, “Cơm”, đến “Cho con xin ”
và rồi “Con đau bụng” vv… cho đến khi chúng học xong đại học, không bao
giờ chúng phải trải qua một lớp dạy chuyên văn phạm nào cả! Nhưng chúng
viết rất nhiều. Từ lớp vỡ lòng qua những lớp cao hơn sau đó, cứ mỗi năm,
bài viết đòi hỏi nhiều hơn - bóng bẩy hơn, lưu loát hơn. Bắt đầu mùa học
nào cũng thế, sốt ruột khi thấy bài viết của con mình có nhiều vết mực của
thầy cô hơn số điểm; nhưng dần dần lại cảm thấy hạnh phúc khi những vết
mực ấy càng ngày càng ít đi và thay vào đó là một con tem, hay một lời phê
bình tốt.
Qua những nét mực sửa sai, phê bình của thầy cô, các con tôi HỌC Anh văn.
Nói cho đúng chúng học cách nói nghe cho xuôi tai và cách viết cho thoát ý.
Văn phạm nhập tâm khi chúng phải trau chuốt một lời nói, một câu văn sao
cho gọn và súc tích từ lớp vỡ lòng cho đến hết suốt cuộc đời. Để đạt được sự
gọn gàng và súc tích ấy, chúng học rất nhiều từ và sự khác biệt giữa những
từ (thế này thì cùng nghĩa mà thế kia thì khác nghĩa), thêm vào đó ý của câu
văn tùy theo vị trí của các từ. Tôi không chỉ nói đây thế nào là sự khác biệt


giữa câu xác định, câu phủ định, câu hỏi, vv… mà còn là sự khác biệt về ý
tưởng. Để học được như vậy, học sinh phải đọc rất nhiều. Ngoài những
quyển sách nằm trong danh sách của trường, chúng được khuyến khích đọc
thêm sách mà chúng tự lựa chọn. Đọc rồi thì phân tích, viết báo cáo. Lúc còn
nhỏ thì theo cách bố cục của thầy cô; khi đã vững cách trình bày thì được
quyền hành văn thông thoáng hơn nhưng phải có lý. Khi trò phá rào, nếu
thầy cô thấy ý tưởng ấy hay hoặc lạ, họ lại lấy đó làm đề tài cho cả lớp phê
bình (chúng ta cả thầy và trò cùng học!).
Vào trung học, học sinh sẽ được luyện cách viết phản xạ (impromptu
writing). Thầy cô ra đề bất kỳ lúc nào, học sinh có từ 15-30 phút để trình bày
ý tưởng và sự hiểu biết của mình. Nhà giáo sẽ nhìn vào đấy để theo dõi và tu
bổ những gì mà học sinh còn khiếm khuyết. Ở trung học phổ thông (THPT),
học sinh còn được dạy cách viết văn theo nhiều thể loại: tiểu thuyết, báo chí,
cũng như báo cáo khoa học. Quan trọng trong tất cả các lớp dạy Anh văn
chuẩn bị cho đại học mà riêng tôi thấy rất cần thiết và tôi xin được phép nôm
na gọi là phân tích học (analytical writing) và tranh luận (debating).
Viết và đọc là như thế, còn nghe và nói thì thế nào?
2. Nghe và nói
Nghe thì dĩ nhiên từ lúc mở mắt cho đến khi đi ngủ thì là hoàn toàn chung
đụng với Anh ngữ – ngoại trừ tiếng Việt từ người thân hoặc ở lớp dạy Việt
ngữ. Tuy nhiên, không phải ai nghe gì cũng hiểu – cái hiểu biết đi theo trình
độ học vấn và kinh nghiệm sống. Nói như vậy có nghĩa là kỹ thuật nghe
cũng cần thời gian. Nhưng vấn đề quan trọng trước hết là làm quen với cách
phát âm rồi tiếp đó nhịp điệu của câu nói (từng chữ rồi đến từng câu). Trước
tuổi vào lớp vỡ lòng, các cháu bé Việt hay Mỹ cũng đều như nhau; nghe và
hiểu một số từ rất giới hạn. Trong giai đoạn ấy, phần lớn nhà nào cũng nhạc
và truyện thiếu nhi chất đầy!
Tuy nhiên, khi các các cháu nhỏ bước chân vào tiểu học thì nhà trường rất
chú trọng đến cách phát âm của chúng. Tùy theo cách nhận xét của thầy cô,
những trẻ có vấn đề với một hay nhiều âm gốc thì sẽ được gửi đến chuyên

viên luyện âm / luyện giọng (speech therapist) một tuần hay nhiều hơn để họ
sửa lại.
Ở bậc tiểu học, học sinh sẽ gặp nhiều nhóm chữ: cùng âm khác nghĩa, cùng
âm viết khác, cùng âm viết giống khác nghĩa, khác âm viết giống. Thêm vào
đó là cách dùng các thành ngữ hay đặc ngữ (idoms). Có những đặc ngữ đi
trái với văn phạm, chủ từ số nhiều đi với động từ số ít hay tính từ đóng vai
trạng từ, vv…
Nói chung, kỹ thuật nghe và nói đòi hỏi người học thường xuyên đắm mình
trong khung cảnh và môi trường sử dụng tiếng bản xứ, hơn là học lâu dài
nhưng chỉ mỗi ngày một ít. Ngoài ra viết và đọc càng nhiều thì nghe và nói
càng trở nên sắc bén.
So với cách học Anh ngữ ở xứ người và cách học tiếng mẹ đẻ mà tôi đã đi
qua thì chúng chẳng khác nhau cho lắm. Tuy nhiên, thời giờ có giới hạn;
đồng thời, Anh văn chỉ là môn phụ trong chương trình giáo dục thì chúng ta
phải giải quyết như thế nào để nâng cấp trình độ Anh ngữ của học sinh và
sinh viên Việt Nam?
III. Học Anh văn ở Việt Nam
'Dùng ba lần sai thì khó sửa' – Học ngoại ngữ không đúng từ đầu thì sẽ mất
rất nhiều thời gian để tu chỉnh; Anh ngữ lại có cái khó riêng vì có rất nhiều
ngoại lệ mà sách vở thì thường thiếu sót. Không thể nào một quyển sách
tham khảo có thể bình luận hết tất cả các ngoại lệ. Cuối cùng, giáo viên với
kiến thức căn bản chỉ lại cho học trò kiến thức nhập môn thì kết quả là đi thi
thì đạt được điểm cao, mà dùng thì lại không đúng vì công thức chỉ đúng khi
không chạm phải ngoại quy.
Thêm vào đó, vì thời gian có hạn, con em chúng ta học quá ít từ. Dùng một
từ quen thuộc cho nhiều ngữ cảnh thì sẽ không thoát ý. Lắm lúc học trò lại
thích dùng những chữ mới học để đánh bóng câu văn mà không hiểu rằng sự
hoa mỹ không đúng chỗ lại làm người đọc thấy khó hiểu hoặc hiểu sai! Con
em chúng ta học ít từ mà mỗi từ thì lại không thông - lấy thí dụ, chữ go với
nghĩa gốc là đi, cộng với các biến thể có đến hơn năm mươi cách dùng; chỉ

học chữ go và các biến thì (tense) là quá ít. Đấy là chúng ta chưa đề cập đến
kỹ thuật nghe và nói và những khó khăn mà chính trẻ ở nước người cũng
vấp phải như đã nêu trên nếu không có điều kiện hay không có người hướng
dẫn tốt.
Có một số trẻ em có điều kiện để theo học những chương trình quốc tế.
Nhưng chọn trường thì không phải là điều dễ. Cha mẹ thường nghĩ rằng
chuẩn là phải học với người bản xứ. Nhưng thế nào là chuẩn khi giáo viên
không có trình độ sư phạm và lắm lúc bị bối rối với những câu hỏi tại sao và
trả lời cho qua vì nghĩ rằng học trò của mình thiếu kiến thức? Thế nào là
chuẩn khi cách phát âm của họ không giống nhau? Người bản xứ ở nước này
thì phát âm khác người ở nước kia. Cùng một nước tùy theo vùng mà cách
phát âm lại có riêng những đặc thù. Là nhà giáo, chúng ta có trách nhiệm
phải định nghĩa chữ ‘chuẩn’ cho đúng để người dân không còn có khái niệm
mơ hồ. Khi họ hiểu thế nào là chuẩn thì những ai không đạt chuẩn sẽ tự loại.
Dĩ nhiên theo học chương trình quốc tế cũng có cái hay khi môi trường học
dùng Anh ngữ thường xuyên hơn, một trong những điều kiện để phát huy kỹ
thuật nghe và nói. Nhưng ngược lại con em của chúng ta phải chấp nhận
những yếu điểm khác; thí dụ như có thể không thông cảm tiếng mẹ đẻ sâu
sắc bằng các bạn học theo chương trình giáo khoa trong nước; hoặc có thể
chậm hơn về các môn khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, câu hỏi mà chúng ta
nên trả lời là thế nào thì vừa đủ hay cần phải xuất chúng về văn chương hay
khoa học để có thể đóng góp tích cực cho quê hương. Thế thì đối đầu với các
khó khăn nêu trên trong sự giới hạn của thời gian, thiếu thốn của nhân lực,
và quá nhiều điều để học thì chiến lược trồng người để hội nhập quốc tế phải
như thế nào để đem đến hiệu quả tối ưu? Tôi xin mạn phép góp ý như sau:
IV. Dạy và Học Anh văn để đáp ứng sự đòi hỏi hội nhập quốc tế

1. Dạy cho đa số nghe và nói được
Trước hết, ba vấn đề cần được để ý:
Thứ nhất, trên thế giới, phần lớn nước nào có số người sử dụng được Anh

ngữ để trao đổi dễ dàng với cộng đồng quốc tế nhiều thì nước ấy dễ phát
triển nhanh. Mặc dầu không phải ai cũng cần biết Anh ngữ; nhưng trên tất cả
các lãnh vực có liên quan đến am hiểu, thoả thuận và đồng ý với cộng đồng
quốc tế, ngôn ngữ này rất cần thiết.
Thứ hai, theo ước tính từ nhiều nguồn, ở Anh và Mỹ, trung bình một học
sinh cấp 3 biết khoảng 10.000 – 16.000 từ; sinh viên ra trường đại học biết
khoảng 20.000- 25.000 từ; để hiểu và dùng lưu loát như người bản xứ cần
20.000 từ (35.000 – 60.000 theo David Crystal). Dầu có khác nhau vài
ngàn, tất cả các nguồn đều cho rằng chỉ cần thông thạo 2.000 từ thông dụng
là có thể hòa mình với xã hội.
(1)

Thứ ba, lấy nước Mỹ làm điển hình, một hợp chủng quốc có hơn 300 triệu
dân, đại đa số ai cũng nói và nghe được Anh ngữ - trừ người bản xứ có văn
hoá, phần lớn là tạm đủ, kể cả những người dùng trật văn phạm và không
thoát ý.
Như vậy chuẩn văn phạm rất cần thiết cho sự trao đổi khoa học cũng như
giao tiếp qua công ước và hợp đồng (những vấn đề liên quan đến luật).
Ngoài ra, làm chủ văn phạm không phải là điều kiện thiết yếu. Vì thế chúng
ta không nên dạy văn phạm quá sớm, quá nhiều một cách đại trà. Quan trọng
là luyện nghe và nói thường xuyên hơn ở bậc tiểu học và trung học cơ sở
(THCS). Thêm vào đó là học từ và cách dùng từ trong những câu đối thoại
mẫu theo các ngữ cảnh khác nhau.
Từ lớp 4 trở lên, học sinh nên bắt đầu tập viết và viết thật nhiều. Đầu tiên
nên tập viết một câu tiếng Anh từ năm chữ trở xuống. Dần dần số chữ trong
câu sẽ tăng dần theo thời gian. Cho đến khi xong THCS thì học sinh đã có
thể viết một đoạn văn ngắn khoảng 100 chữ. Về văn phạm nên chỉ dạy kèm
trong các bài viết. Mỗi bài tập viết nên chỉ nêu một yếu tố văn phạm cần
thiết mà thôi. Nếu cần, nên dạy lại yếu tố ấy thường xuyên trong những bài
tập viết kế tiếp.

Để tập nghe và nói, giáo viên nên sử dụng các phương tiện sẵn có trên mạng
hoặc những CD từ điển kèm theo cách phát âm của người bản xứ. Không
nên dùng cách phát âm lẫn lộn của nhiều nước. Trên mạng dành cho người
học Anh ngữ là tiếng thứ hai (ESL) hay ngoại ngữ (EFL) có rất nhiều trò
chơi dành để dạy phát âm, các giáo viên nên tham khảo để soạn bài giảng
cho học trò.
Để đạt được kỹ năng tạm đủ ở cấp sơ đẳng, hoc sinh chuẩn bị vào THPT nên
biết khoảng 2.000 – 3.000 từ thông dụng và chừng 100 thành ngữ thường
dùng.
2. Dạy cho học trò THPT biết phân tích câu văn
Nếu các bạn trẻ đã qua các lớp Anh văn ở bậc THCS như vừa nêu trên, thì
phần còn lại phải học thêm ở bậc THPT là khả năng phân tích câu văn.
Muốn phân tích giỏi, thì các bạn ấy trước hết phải học thêm nhiều từ và cách
sử dụng từ. Để giải quyết vấn đề này, cách hay nhất là viết và đọc thật nhiều.
Tập viết văn theo ngữ cảnh và tình huống bằng cách thay từ cho thích hợp
rất là quan trọng. Vì qua cách học ấy, học trò sẽ cảm được ngôn ngữ mà
mình học. Để luyện thêm sự nhạy bén, giáo viên nên dành 1 hay 2 tiết trong
tuần để học trò tập viết văn theo phản xạ - câu văn phải ngắn, gọn, và súc
tích.
Đối với học sinh chuyên Anh, chúng ta nên bồi thêm vào chương trình học
cách viết báo, thơ văn, và tiểu thuyết.
Học sinh chuẩn bị vào đại học nên biết khoảng 7.000 – 10.000 từ (chuyên
Anh khoảng 10.000 – 15.000) và chừng 300 thành ngữ thường dùng.
3. Dạy cho sinh viên đại học cách viết báo cáo, bài tham khảo, và luận
văn
Khi vào đến đại học, sinh viên tùy theo ngành sẽ phải chọn một trong ba lớp
học Anh văn cao cấp: khoa học, kinh tế thương mại, và luật. Sau khi đã cảm
thông với ngôn ngữ và các ngoại lệ thì đây là lúc cần thiết để tu bổ chuyên
văn phạm. Từ các ngoại lệ nhìn về cấu trúc logic của văn phạm, sinh viên sẽ
hiểu được cái thâm thúy của tiếng Anh. Nhìn cái đẹp, cái chuyên, cái logic

từ hướng không đẹp, không chuyên, không chuẩn thì dễ cảm thông hơn là
ngược lại. Một khi học sâu cái logic của văn phạm quá sớm, quá nhiều thì
những cái gì nằm ngoài khung logic thì hay làm ta bị rối trí, nghi ngại, và
thường đặt vấn đề.
4. Dạy Anh văn bổ túc, sửa sai
Ngoài chương trình giáo khoa của bộ giáo dục và đào tạo, xã hội nên khuyến
khích và tạo điều kiện cho những người đã bỏ lỡ con đường học vấn chính
quy ra đời kiếm kế sanh nhai để cho họ theo học các lớp Anh văn tu bổ và
sửa sai - học sao cho nói rõ, nghe được 2.000 từ thông dụng và vài trăm câu
giao tế, trao đổi điển hình là họ có thể hoà nhập với cộng đồng quốc tế.
V. Môi trường học Anh văn
1. Khả năng giáo viên
Nên khuyến khích các giáo viên dạy Anh văn đạt được ít nhất 550 điểm
TOEFL hoặc 7 điểm IELTS. Để dạy đại học thì nên đạt trên 1400 điểm GRE
cho các môn khoa học, 650 điểm GMAT cho quản trị kinh doanh hoặc có
bằng tiến sĩ cấp từ các trường quốc tế đã được thế giới công nhận. Nếu cần,
nhà nước nên có những lớp chuyên tu 3/7/24 (3 tháng, 7 ngày một tuần, 24
tiếng một ngày - sống và học trong một môi trường hoàn toàn sử dụng tiếng
Anh).
Cho đến nay, số người đã đi qua các khoá học Anh văn thì khá nhiều. Thành
ra những cách phát âm sai hoặc dùng từ không đúng vì dịch theo nghĩa tiếng
Việt đã trở thành thói quen. Nói sai thành ra nghe sai. Dùng sai thành ra viết
sai. Để sửa sai một cách hiệu quả nhất, chúng ta nên dùng kiều bào bản xứ
(native, sanh ra và lớn lên tại xứ người nhưng nói giỏi tiếng Việt) hoặc bán
bản xứ (semi-native, sống, làm việc lâu năm trên đất bạn và hiểu thông, nói
thạo tiếng Anh) thì hay hơn. Họ có thể dùng văn hóa Việt và cách phát âm
tiếng Việt của từng vùng để làm điểm tựa cho học sinh theo đó mà chỉnh lại
thói quen xấu.
2. Tài liệu và dụng cụ giảng dạy
Ngày nay, với sự đóng góp của hệ thống Internet, tài liệu giảng dạy Anh ngữ

đều có sẵn và rất nhiều để giúp người học nâng cao trình độ ngoại ngữ của
mình. Từ phương thức dạy học đến tự học, từ tự điển đến trò chơi, từ cách
luyện âm đến dòng nhạc tất cả đều có trên mạng. Thêm vào đó, các cộng
đồng trao đổi kiến thức (forums) nằm dưới sự phục vụ không vụ lợi của các
giáo sư người bản xứ cũng dễ tìm.
Bởi vậy một phòng học tiếng Anh chỉ cần được trang bị một máy có đầu đọc
/ chép CD, một cặp loa, cộng với đường truyền tốt là vừa. Ở vùng sâu, vùng
xa, không có điều kiện nối mạng thì học từ CD cũng tạm đủ. Nhưng, nếu có
điều kiện, thì thêm máy chiếu (projector), và máy thâu âm. Tốt nhất là có
riêng phòng lab và trong đó mỗi học sinh được phân phối riêng dụng cụ học
tập.
3. Câu lạc bộ Anh văn (CLBAV)
Như đã nêu trên, để học Anh ngữ cho nhanh và cho thuần thì người học cần
phải đắm mình trong môi trường thường xuyên dùng Anh ngữ. Nếu có khả
năng và điều kiện, chúng ta nên tạo ra các CLBAV trong trường cũng như
ngoài xã hội.
CLBAV còn là nơi con em chúng ta có thể đến giải trí và hòa đồng với các
bạn. Ngoài ra chúng ta có thể dùng môi trường ấy để cho các em làm báo,
tranh luận. Đấy cũng là nơi các em học cách tiếp khách nước ngoài. Có gì
bằng khi khách nước ngoài đến tham quan và thăm viếng Việt Nam họ có
thể ghé vào các CLBAV để học hỏi thêm văn hóa từng vùng và đồng thời
lấy đó làm cơ duyên để trở lại và đóng góp sau này! Một buổi gặp gỡ để rồi
nối vòng tay lớn.
Trong một năm học các CLBAV có thể tìm gặp nhau một hay vài lần qua
những cuộc thi đua Anh văn. Nếu tổ chức chặt chẽ, các CLBAV có thể trao
đổi tài liệu, sách vở, phim ảnh để tất cả cùng học tiếng Anh.
Nói chung, CLBAV là môi trường cho các bạn trẻ giảm đi sự bỡ ngỡ và ngại
ngùng khi dùng Anh ngữ trước kẻ lạ và quần chúng - giảm tật xấu tăng thói
hay.
VI. Kết luận

Đã đến lúc dân tộc ta vươn ra biển lớn. Hội nhập với cộng đồng thế giới đòi
hỏi chúng ta phải biết tiếng Anh. Muốn đẩy mạnh nghiên cứu và giảng dạy
khoa học, chúng ta đã có chương trình đào tạo 20.000 tiến sĩ trong vòng 10
năm, con số ấy lớn nhưng lại nhỏ đối với 100 triệu dân.
Nếu có tiến sĩ nhưng học sinh, sinh viên vẫn gặp trở ngại với Anh văn trong
10 năm tới thì chúng ta sẽ có thể đạt được kết quả tối ưu hay không? Đã có
chương trình từ trên loang xuống, chúng ta cũng nên tạo thêm điều kiện để
kiến thức loang cho dễ. Điều kiện ấy là bao trùm từ dưới đẩy lên.
Bắt đầu hôm nay thì 10 năm nữa, với chương trình dạy Anh văn cho tập thể
học sinh, sinh viên đúng cách, chúng ta sẽ có một đội ngũ thanh niên sẵn
sàng trao đổi với bạn bè trên thế giới một cách bình đẳng.
Chúng ta nên bắt tay đẩy mạnh phong trào học tiếng Anh trong mọi tầng lớp
quần chúng với cách học tiếng Anh theo chuẩn quốc tế. Nền tảng của phong
trào là 50.000 giáo viên dạy Anh văn có trình độ và được quốc tế công nhận.
Nếu trong vòng 5 năm, chúng ta có thể tạo được nền tảng đó thì tương lai đất
nước sẽ sáng nhanh hơn. Với 50.000 giáo viên, bắt đầu từ con số 2.000 vào
năm thứ nhất và tăng dần đến năm thứ 5, hy vọng rằng trong vòng 10 năm,
chúng ta có thể đào tạo được ít nhất 10 triệu người dân biết dùng 2.000 từ
thông dụng một cách thoải mái, và khoảng 2 triệu thanh niên nam nữ dùng
tiếng Anh không thua người bản xứ. Được như thế thì không còn gì quá khó
để ngăn chặn chúng ta lướt sóng đại dương.

×