Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Ẩn ngữ nghệ thuật thời tiền sử pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.27 KB, 7 trang )

Ẩn ngữ nghệ thuật thời tiền sử


Tháng 12/1994, Jean-Marie Chauvet và hai người bạn khám phá hệ
hang động vùng Ardèche nước Pháp. Thật may mắn, họ đã tìm thấy các
bức bích họa sinh động về ngựa, sư tử, bò tót, tê giác cũng như voi ma-
mút. Một số hình ảnh được vẽ, số khác được “chạm” vào vách hang.
Khám phá của Chauvet là một trong những khám phá khảo cổ vĩ đại
nhất thế kỷ XX. Nhưng giống như các khám phá khác, trong khi giải
đáp được nhiều vấn đề, nó cũng đặt ra nhiều câu hỏi mới.
Người nguyên thủy với dấu chân trần hiện rõ trên bùn đã vào hang động từ
bao giờ? Tại sao họ vào sâu trong lòng đất để vẽ tranh? Hành vi bí ẩn đó có
phải là nguồn gốc của cái mà chúng ta gọi là “nghệ thuật” ngày nay hay
không? Những hình ảnh đó liên quan thế nào với vật khắc trên xương, ngà
voi và các bức tượng nhỏ tìm thấy ở các địa danh thời Đồ Đá Mới? Những
câu hỏi đó từng được đặt ra trước kia, nhưng nay thì cần trả lời càng sớm
càng tốt.
Niên đại tranh trong hang được Chauvet xác định khá dễ dàng. Kỹ thuật
carbon phóng xạ cho thấy chúng có tuổi 32.410 năm, với sai số 720 năm. Đó
là những bức tranh khá tinh tế lâu đời nhất mà chúng ta từng biết. Chúng
xuất hiện gần như đồng thời với sự có mặt của người hiện đại tại Tây Âu.
Chúng đặt ra một câu hỏi hoàn toàn mới là, “nghệ thuật” có thể xuất hiện
hoàn chỉnh ngay từ đầu, chứ không trải qua một quá trình phát triển từ thấp
tới cao? Và tại sao lại vẽ tranh sâu trong lòng đất?
Câu hỏi tại sao vĩ đại?
Năm 1860, khi khám phá các “tác phẩm nghệ thuật” đầu tiên, giới nghiên
cứu giả định rằng, động cơ duy nhất của chúng là thẩm mỹ. Nói cách khác,
các bức tranh thời Đồ Đá Mới chỉ đơn giản là “nghệ thuật vị nghệ thuật” và
việc vẽ tranh là thú tiêu khiển của người tiền sử. Nhưng rất khó hình dung
cảnh người nguyên thủy vất vả bò xuống tận hang sâu chỉ để vẽ các con vật
mà họ thấy quanh mình trên mặt đất.


Ngay cả mệnh đề “nghệ thuật vị nghệ thuật” cũng cần được đặt ra đúng
nghĩa, vì nhiều nhà lịch sử nghệ thuật tin rằng, không hề có cái “vị nghệ
thuật” đơn thuần như thế. Việc nghiên cứu vai trò của nghệ thuật trong các
xã hội ngoài phương Tây - nhất là tại phương Đông - cho thấy, nghệ thuật
luôn được đặt trong một mạng lưới xã hội và
mang nhiều mục đích.

Sử học lừng danh
Abbé
Lời giải thích cho các con đường hiểm nguy sâu
trong lòng đất xuất hiện hầu như không chậm trễ.
Nhà nghiên cứu Pháp Salomon Reinach (1902)
cho rằng, “dùng ma thuật để sai khiến” chính là
lý do. Con người vẽ hình để điều khiển những con thú mà họ vẫn săn. Hành
vi đó thường được bao phủ dưới bức màn bí ẩn và phải thực hiện xa nơi cư
trú là điều dễ hiểu. Rồi khi phát hiện các hình vẽ sư tử, nhà tiền sử học lừng
danh Abbé Henri Breuil (1952) cho rằng, con người vẽ vì muốn khỏe như
chúng. Theo Reinach, qua “nghệ thuật”, con người thời Đồ Đá Mới hy
vọng săn được nhiều thú để cuộc đi săn thành công.
Dần dà giới nghiên cứu nhận ra rằng, đó là cách giải thích quá đơn giản. Nó
không thể đúng cho rất nhiều loại hình nghệ thuật và không giải thích được
những đặc trưng còn chưa phát hiện. Chẳng hạn nó không tính đến thực tế
là, hình dạng các mỏm đá và vách hang thường được dùng làm đường viền
của hình vẽ.
Vào những năm 60 của thế kỷ trước, Leroi-Gourhan, học trò cũ của Breuil,
đưa ra cách giải thích hoàn toàn mới. Nó dựa trên cấu trúc luận, một quan
điểm triết học do nhà dân tộc học Claude Lévi-Strauss phát triển. Cấu trúc
luận cho rằng mọi người đều tư duy theo xu hướng đối nhau một cách nhị
nguyên, vì bộ não được kết nối như vậy (hai bán cầu não có chức năng bổ
Henri Breuil nghiên c

ứu
bức bích họa
trên vách
đá (Ảnh: culture.gouv)
sung nhau). Nên tư duy của chúng ta thường đối nhau kiểu: tự nhiên/văn
hóa, nóng/lạnh, sáng/tối, chúng ta/họ, nam/nữ…
Chính nam/nữ là cái mà Leroi-Gourhan muốn lập thuyết. Ông tin rằng
trong toàn bộ 20.000 năm của thời Đồ Đá Mới, các hang động được cấu trúc
theo nguyên tắc nam/nữ. Một số động vật, như ngựa, tượng trưng cho nam
tính, còn số khác, như bò tót, tượng trưng cho nữ tính.
Các loài “nữ” tập trung tại giữa hang, còn các loài “nam” thì tản mát khắp
nơi. Hình sư tử, gấu và các dã thú nguy hiểm khác thì nằm sâu trong hang.
Đáng tiếc là bằng chứng không ủng hộ giả thuyết thú vị này: các hình vẽ
phân bố khá ngẫu nhiên trong hang.
Năm 1972, Marshach giả định rằng, một số “tác phẩm” chạm trên xương
hay ngà voi, với niên đại 32.000 năm, có thể là một loại lịch. Năm 1983,
Pfeiffer đưa ra cách giải thích bổ sung cho quan niệm của Leroi-Gourhan,
khi tập trung tới tác động của môi trường hang sâu lên giác quan và tinh thần
con người.
Ngày nay chúng ta thám sát hệ hang động bằng đèn chiếu hiện đại và biết rõ
trước kia nhiều người đã từng ở đó. Pfeiffer cho rằng, với người thời Đồ Đá
Mới, tình thế hoàn toàn khác. Dưới ánh đuốc bập bùng, các hình ảnh động
vật dường như cử động và hít thở. Không thể hiểu động cơ của người
nguyên thủy nếu bỏ qua chi tiết quan trọng đó.

Bích họa bò tót trong hang động vùng Ardèche (Ảnh: lehmpfuhl.org)
Thế giới các linh hồn
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đang tranh cãi về một cách giải thích cũng dựa
trên sự kết nối thần kinh của bộ não, nhưng không liên quan với tính đối
ngẫu như trên. Nó xuất phát từ một thực tế là, hầu hết các xã hội săn bắn -

hái lượm trên thế giới đều có hệ niềm tin chung là vu thuật, cho dù nó có
nhiều biến thái khác nhau. Cộng đồng vu thuật luôn tin rằng, ngoài thế giới
mà họ đang sống, còn có thế giới các linh hồn.
Nhiệm vụ của pháp sư là thâm nhập thế giới đó để giao tiếp với các linh
hồn, chữa lành bệnh tật, kiểm soát môi trường động vật và thay đổi thời
tiết. Muốn thế họ phải trải qua “trạng thái ý thức thay đổi”, từ sự phân ly
nhẹ tới ảo giác mạnh hay chiêm bao. Khi đó, họ có thể gặp một linh hồn
động vật để nhận được sức mạnh và sự giúp đỡ của nó.
Theo cách giải thích này, hang động thời Đồ Đá Mới là con đường dẫn tới
thế giới bên kia. Những cố gắng thể lực khi phải bò sâu xuống hang sẽ trợ
giúp thêm cho trạng thái cách ly cảm giác, vì khi đó cơ thể tiết ra các hóa
chất tạo thuận cho sự thăng thiền. Trong vương quốc đó, các pháp sư tìm
kiếm linh hồn động vật trong vai kẻ giúp đỡ và những hình ảnh khác. Bằng
cách nhìn và tiếp xúc, cũng như đốt đuốc lên rồi lại dụi tắt đi, họ xem vách
hang chính là tấm màng ngăn cách họ và thế giới các linh hồn.
Khi tin là đã nắm bắt được một linh hồn động vật, họ liền “kéo” nó qua
màng ngăn và dùng kỹ năng nghệ sĩ để “cố định” cái mà họ “nhìn thấy” lên
vách hang. Đó là lý do tại sao nhiều hình ảnh dường như xuất phát từ hình
dạng bề mặt phiến đá, hay là một phần của phiến đá. Mặt khác, một số hình
ảnh lớn và phức tạp đến mức hình như chúng do một nhóm người tạo nên.
Với các phiến đá có sẵn, con người có thể chuẩn bị cho những hình ảnh sẽ
đến với họ phía sâu trong hang.
Vu thuật là hệ niềm tin và tư tưởng năng động mà con người có thể xử lý và
thay đổi tùy theo từng hoàn cảnh xã hội. Một số đặc trưng cơ bản của nó,
như niềm tin vào thế giới bên kia, dường như không thay đổi trong suốt thời
Đồ Đá Mới, nhưng các đặc tính khác thì có thể thay đổi sau mỗi thiên niên
kỷ.
Dựa trên các bức tranh trên đá tại Nam Phi, mới đây, David Lewis-Williams
và Thomas Dowson (1988) đề xuất một giả thuyết bất ngờ. Họ cho rằng,
chúng thường được tạo ra trong sự tự thăng thiền. Tâm lý học cho rằng,

trong các trạng thái ý thức thay đổi xuất hiện do thiền, do dùng chất gây ảo
giác hay do cách ly cảm giác, bộ não và con mắt sẽ phối hợp nhau để tạo ra
các hình ảnh khác thường. Họ cũng cho rằng, các hình ảnh như thế không
chỉ xuất hiện trong “nghệ thuật“ đá Nam Phi, mà còn tại Lascaux nước
Pháp, cũng như tại nhiều nơi trên thế giới.
Một số câu hỏi quan trọng liên quan với “các bảo tàng nghệ thuật” tại
Ardethe và các hang động khác có thể giải đáp bằng quan niệm vu thuật. Số
khác thì chưa. Chẳng hạn, hình ảnh bò tót có ý nghĩa khác hình ảnh con
ngựa như thế nào? Chú ngựa khắc trên miếng xương mang theo người
có khác ngựa vẽ trong hang hay không? Đơn giản là chúng ta chưa rõ. Chỉ
có một điều đã hoàn toàn rõ là, những bức bích họa trầm mặc đó cho thấy,
tại Chauvet và tại nhiều nơi khác, chúng ta đã may mắn tiếp xúc với thế giới
mất đã từ lâu của con người thực sự đầu tiên.
Khi tìm hiểu nội dung, ý nghĩa và động cơ của “nghệ thuật” thời tiền sử,
chúng ta cần tránh cái nhìn đơn cực, như Ucko và Rosenfeld chỉ ra từ 1967.
Vì trên tất cả, đó chính là con người phức tạp, với khả năng tích hợp hoàn
hảo các quan niệm vũ trụ, ma thuật và các mục tiêu chức năng trong cùng
một tác phẩm.

×