Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Bệnh truyền nhiễm trong lịch sử con người docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.22 KB, 13 trang )

Bệnh truyền nhiễm trong lịch sử con người


Đầu thế kỷ 20, đã xảy ra hai nạn dịch lớn, đậu mùa năm 1913 và dịch
cúm Tây Ban Nha năm 1919. Cúm Tây Ban Nha vào Úc sau khi các binh
lính trở về từ Âu châu sau đệ nhất thế chiến đã lây nhiễm vào dân số. Ở thời
điểm cao của bệnh cúm, có đến 36% dân số bị nhiễm, trong đó gây ra 1.4%
bị tử vong. Ở Sydney, chính phủ tiểu bang New South Wales đã ra lệnh
đóng cửa các rạp hát công cộng, dân phải mang khẩu trang trên các phương
tiện chuyên chở công cộng và các công sở. Trường học, quán bia đóng cửa,
ngay cả các lể trong nhà thờ, tổ chức đua ngựa cũng không được tổ chức.
Sau dịch cúm Tây Ban Nha là 2 dịch cúm lớn lan rộng trên thế giới là cúm
năm 1957 và 1968, nhưng hệ quả không khốc liệt như dịch cúm 1918. Đây
chính là bài học đáng sợ về dịch tể mà ngày nay các nhà chuyên môn và cơ
quan y tế ở nhiều nước trên thế giới lo ngại là dịch cúm gia cầm lan qua
người và trở thành cúm truyền nhiễm giết người nhanh chóng.

Biểu tình ở Paris kêu gọi mọi người mang khẩu trang (Trích từ quyển
Les grandes tragédies)
Virus cúm
Các virus cúm được chia ra ba loại: loại A, B và C. virus loại A, ảnh
hưởng đến gà, vịt, heo, cá voi, cũng như con người là loại nguy hiểm nhất.
virus loại A được chia thành nhóm dựa vào 2 loại proteins: haemaglutinin
(HA) và neuraminidase (NA) ở chung quanh bề mặt của virus. Các khoa học
gia đã tìm ra 16 loại HA (H1-H16) và 9 loại NA (N1-N6). Nghĩa là có tất cả
144 tập hợp các loại virus cúm A, nhưng chỉ có 3 loại tập hợp (H1N1,
H1N2, H3N2) biết được hiện nay là nhiễm truyền giữa con người.
Cúm gia cầm thuộc loại virus H5N1, các nhà khoa học lo ngại là loại
virus H5N1 sẽ gia nhập danh sách virus truyền nhiễm giữa con người. Loại
cúm gia cầm này xuất hiện lần đầu năm 1997 ở Hong Kong, giết chết cả
ngàn gà và 6 người nạn nhân. Sau khi chính quyền thiêu hủy hơn 1.5 triệu


gà, nạn dịch chấm dứt nhưng virus gia cầm H5N1 vẫn còn lưu hành. Tháng
2 năm 2004, một người đàn ông chết vì cúm gia cầm ở Hong Kong, sau đó
vào tháng 1/2004, dịch cúm gia cầm xảy ra giết chết gà ở Nam Hàn, Việt
Nam, Nhật, Thái Lan. Cuối tháng 2/2004, tổng cộng có 28 người bị nhiễm
cúm H5N1 trong số đó chỉ có 7 người là sống sót. Cúm gia cầm nhanh
chóng lan qua Cambodia, Lào và Indonesia Qua các loài chim di cư từ nơi
này sang nơi khác bị nhiễm cúm, dịch cúm gia cầm đã lan đi nhanh chóng.
Cuối năm 2005 đã lan qua Thổ Nhĩ Kỳ, và mới đây trong tháng 1,2/2006 lan
qua Nigeria (Phi Châu), Bungary, Pháp.
Cúm gia cầm H5N1 có thể thành nạn dịch chết người như cúm
Tây Ban Nha 1918?
Virus cúm Tây Ban Nha thuộc 1 loại biến thể của virus H1N1. Hiện
nay người ta được biết là virus Tây Ban Nha là từ chim nhảy qua người qua
công trình nghiên cứu mới nhất gần đây (1). Hệ di truyền của virus Tây Ban
Nha đã được giải mã (sequence) cho thấy là hệ di truyền của virus cúm gia
cầm hiện nay ở Á châu có những thay đổi di truyền rất giống virus Tây Ban
Nha đã gây truyền nhiễm chết người rất nhanh chóng. Chỉ một vài các
protein đặc biệt trên hệ protein của virus là chuyển virus thành virus giết
người. Virus Tây Ban Nha rất khác với virus cúm thường là nó nhiễm vào
các tế bào ở tận sâu trong phổi và các tế bào phổi chung quanh các bao chứa
không khí, mà thông thường không bị tấn công ở các virus cúm thường.
Trong phòng thí nghiệm, khác với virus thường, virus Tây Ban Nha và virus
gia cầm phát trên người hiện nay giết chết chuột khi chúng bị nhiễm. Tuy
vậy hiện nay virus cúm gà chưa truyền nhiễm được từ người sang người.
Năm 1995, nhà khoa học Taubenberger thuộc khoa bệnh lý phân tử
thuộc Viện Bệnh lý quân đội (Mỹ) có ý tưởng tìm ra lại virus Tây Ban Nha
để nghiên cứu, ông hy vọng là virus 1918 sẽ cho thấy những thay đổi di
truyền làm sự truyền nhiễm từ người sang người xảy ra được, từ đó giúp con
người tìm ra biện pháp ngăn chặn nạn dịch trước khi chúng phát tán khắp
nơi. Đây là công trình nghiên cứu khoa học hết sức quan trọng để tìm ra

virus nguy hiểm va phương pháp để làm chúng hết hiệu lực. Năm 1918,
virus chưa được khoa học khám phá. Làm sao các nhà khoa học ngày nay có
thể tìm ra lại virus Tây Ban Nha và kiến tạo lại cấu trúc di truyền của nó?.

Ông JefferyTaubenberger nhớ lại là viện của ông đang làm có một
nhà kho chứa các tế bào từ khám nghiệm tử thi, được thiết lập dưới thời tổng
thống A. Lincoln, người đã ra lệnh là mỗi khi một bác sĩ quân y chẩn bệnh
và lấy các mô tế bào, thì một mẫu tế bào đó cũng phải được gởi tới và chứa
tại Viện Bệnh lý quân đội. Ông Taubenberger muốn biết là ông có thể tìm
được tế bào phổi từ binh lính đã chết trong dịch cúm 1918 và từ đó lấy ra
được virus để nghiên cứu. Ông đã tìm được mô tế bào từ 2 người lính, mẫu
mô phổi của họ ngâm với formalin (formol, formaldehyd) nằm trong các
khối sáp. Các mô tế bào phổi này đã được chứa và chưa ai dùng đến đã gần
80 năm, tuy vậy trong đó có virus đã bị gãy và xuống cấp, chỉ còn lại vài
phân tử virus. May mắn hơn, ông lại có thêm một mô tế bào thứ ba, từ một
người đàn bà đã chết ở vùng lạnh Alaska khi cúm lan đến làng của bà, giết
chết 72 người lớn chi còn lại 5 người sống sót. Tất cả nạn nhân đều được
chôn ở một mồ tập thể dưới tầng đất bị đóng băng vĩnh cửu (permafrost).
Ông John Holtin, nhà bệnh lý học đã về hưu, khi nghe biết công trình ông
Taubenberger đang nghiên cứu, đã tự bỏ tiền ra từ San Francisco nơi ông ở
đến tận mồ chôn ở Alaska và với sự chấp thuận của làng này, lấy mẫu tế bào
phổi còn đông lạnh, gởi đến ông Taubenberger. Nhóm ông Taubenberger
trong gần 10 năm đã lấy và cấu tạo lại các gene của virus Tây Ban Nha. Họ
đã công bố dãy di truyền của 8 gene virus trên các tạp chí khoa học Nature
và Science.

Tháng 8, năm 2005, ông Terrence Tumpey và các đồng nghiệp ở
Trung tâm Kiểm chặn bệnh tật (Center of Disease Control) đã dùng thông tin
từ các gene mà ông Taubenberger đã công bố để cấu tạo lại virus 1918. Họ
tự hỏi là điều gì sẽ xảy ra nếu các chuột trong phòng thí nghiệm và mô phổi

ở người bị nhiễm virus 1918 mà họ cấu tạo lại. Các nhà khoa học đã hết sức
cẩn thận, họ dùng phòng thí nghiệm đặc biệt để bảo vệ các nhà nghiên cứu
và phòng ngừa sự phát tán của virus 1918 được cấu tạo lại. Họ cũng đặt câu
hỏi là có chăng virus 1918 vẫn còn gây chết người nếu họ thay một số gene
trong 8 gene cấu tạo lại của virus 1918 với gene của virus cúm thông thường
hiện nay.

Nạn nhân của dịch cúm 1918 tại bệnh viện ở Camp Funston, Fort
Riley, Kansas (National Museum of Health & Medicine), bệnh cúm này đã
làm chết từ 20 đến 40 triệu người thế thế giới lúc bấy giờ.
Các nhà khoa học đã bắt đầu khám phá những bí mật của virus 1918.
Trong các thí nghiệm trao đổi gene, họ thay gene hemagglutini từ virus 1918
với gene hemagglutini từ virus cúm gần đây nhất trên người. Kết quả bất
ngờ là virus 1918 được cấu tạo lại không còn phát sinh ở phổi chuột và giết
chuột nữa. Và chúng không thể bám vào mô tế bào phổi ở người trong
phòng thí nghiệm. Quan trọng nhất là protein trên gene hemagglutini của
virus 1918 chết người chỉ khác protein của cúm gia cầm ở hai amino acids.
Điều này cho thấy sự nguy hiểm và tác hại không lường của virus cúm gia
cầm hiện nay nếu gene hemagglutini trên virus gia cầm biến dạng qua đột
biến hay trao đổi gene với virus cúm khác trên người để trở thành gene
hemagglutini trên virus 1918.
Các bệnh truyền nhiễm từ thú vật qua người
Jared Diamond cho thấy rằng khi con người thuần hóa thú vật thành
gia súc, sự tiếp súc gần gũi này đã gây ra nhiều bệnh truyền nhiễm do vi
khuẩn, virus từ thú vật thích ứng với môi trường mới ở người. Đậu mùa và
lao phổi là do vi khuẩn từ bò sang người thích ứng với môi trường truyền từ
người sang người. Bệnh AIDS do virus bắt đầu từ khỉ biến thái nhảy sang
người, bệnh sốt rét do sinh vật protozoa Falciparum malaria gây ra bắt
nguồn từ protozoa tương tự ở chim.


Khảo sát các bệnh từ thú sang người cho thấy có bốn giai đoạn tiến
hóa của các virus, vi khuẩn gây bệnh ở người (4). Giai đoạn đầu ta có thể
thấy là các bệnh mà hiện nay thỉnh thoảng ta bị nhiễm trực tiếp từ gia súc
như bệnh sốt từ vết cào của mèo, sốt leptospirosis từ heo, chó, mèo, sốt
psittacosis từ gà và chim két. Những vi khuẩn này vẫn còn ở trạng thái mới
bắt đầu trong sự tiến hóa đến vi khuẩn truyền ở người, chúng chưa trực tiếp
truyền từ người này sang người kia. Giai đoạn thứ hai, vi khuẩn tiến hóa đến
mức chúng có thể trực tiếp truyền nhiễm giữa người và gây ra bệnh dịch
truyền nhiễm. Tuy nhiên sau đó một số các bệnh dịch truyền nhiễm này biến
đi bởi các lý do như bệnh bị chăn đứng bởi y học hiện đại hoặc chấm dứt khi
nhóm người đã bị nhiễm được miễn nhiễm hay đã chết hết không truyền
được ra khỏi nhóm. Thí dụ như vào năm 1959 ở Đông Phi, một bệnh sốt
chưa bao giờ được biết đến gọi là sốt Ónyong-nyong đã lan nhiễm vài triệu
người. Bệnh này có thể bắt nguồn từ virus ở khỉ và truyền qua người từ
muỗi. Do bệnh nhân hồi phục nhanh và trở thành miễn nhiễm nên bịnh mới
này biến mất nhanh chóng. Giai đoạn thứ ba trong sự tiến hóa của các bệnh
truyền nhiễm bởi những vi sinh vật từ thú là chúng đã có mặt trong loài
người và chưa biến mất, có thể tái phát truyền nhiễm rất nhanh chưa biết lúc
nào. Như sốt Lassa giết người chắc hẳn gây ra bởi virus từ chuột, đã phát tán
rất nhanh ở Nigeria năm 1969 đến nổi các bệnh viện phải đóng cửa chỉ cần
có một trường hợp bệnh nhân nhập viện. Giai đoạn tiến hóa sau cùng là các
bệnh truyền nhiễm đã xảy ra ở người nhiều lần và vẫn còn đó, chúng đã thiết
lập chắc chắn trong xã hội người sau khi đã trãi qua nhiều giai đoạn tiến hóa
nhảy từ thú sang người và tự phát sinh từ người qua người.
Đối phó và phòng ngừa bệnh cúm gà

Bản đồ thế giới những nước bị nhiễm virus H5N1, ngày 1/4/2006
(trích từ fr.wikipedia)




T
rong
một
nghiên cứu mới nhất đăng trên tạp chí Viện Hàn Lâm Khoa Hoc ở Mỹ, sau
khi phân tích di truyền các loại virus H5N1 từ gia cầm, chim ở Trung quốc
cho thấy là virus đã có mặt và phát tán ở nam Trung Quốc từ cả một thập
niên trước đây (5). Vì vậy có thể đoan chắc rằng Nam Trung Quốc là nơi
khởi thuỷ, phát sinh ra bệnh cúm gia cầm H5N1.
Các nhà khoa học cũng cho thấy là các loài chim di cư đã đóng một
vai trò quan trọng trong sự truyền bá và phát tán virus gia cầm trên thế giới.
Ở Nam Trung Quốc, nhiều gia cầm khoẻ mạnh đã được miễn nhiễm nhưng
vẫn còn mang virus. Đây là vấn nạn lớn phải giải quyết để khỏi lan ra các
gia cầm chưa bị bệnh ở những nơi khác. Sau khi phân tích dãy di truyền của
cá loại virus H5N1 trên chim trời, gà ở đầm lầy Hong Kong, hồ Phổ Dương
ở miền đông Trung Quốc và các chợ gà vịt ở Nam Trung Quốc, các nhà
nghiên cứu đã cho thấy, qua các biểu đồ liên đới giữa các virus, là gia cầm


→ màu đó: những nước có chim hay gà v
ịt bị nhiễm
H5N1


→ Màu nâu: những nước người dân bị nhiễm virus
H5N1
từ Nam Trung Quốc đã nhiễm vịt trời đầu năm 2005. Các vịt trời này đã
mang virus đến hồ Phổ Dương ở đông Trung Quốc, và từ đó đã đến hồ
Thanh Hải, miền tây Trung Quốc, cách đó hơn 1700km giết chết rất nhiều
chim ở khu trú ẩn và được bảo vệ này. Từ hồ Thanh Hải, virus được truyền

đến Nga và các nước khác ở Trung Đông, Mông Cổ và Âu Châu.
Từ Nam Trung Quốc, đã có nhiều lần các đợt truyền nhiễm quan nước
láng giềng Việt Nam và xa hơn (Indonesia). Ở các nơi đấy, virus thiết lập
nơi cư trú mới và gây trầm trọng thêm biện pháp phòng ngừa ngăn chặn dịch
cúm gia cầm nhảy sang người. Vì thế muốn ngăn chặn và kiểm soát dịch
cúm, cần phải phong tỏa bao vây nguồn dịch ở Nam Trung Quốc trước nhất.
Ở Saigon và nhiều tỉnh, tôi để ý thấy có nhiều bích chương, biểu ngữ
thông báo cho dân chúng biết về hiểm hoạ dịch cúm gia cầm có thể lan sang
người va cách đề phòng, từ những thông tin cơ bản như nấu chín kỹ thịt gà,
dịch cúm H5N1 khi lan qua người và truyền nhiễm sẽ giết đến 2 triệu người
ở Việt Nam, phương tiện vận tải chở gia cầm phải tránh giờ cao điểm lưu
thông và có đường đi nhất định. Phải nói là ở Việt nam có sự thực hiện tích
cực ngăn chận dịch cúm gia cầm. Tổ Chức Y tế thế giới (World Health
Organisation) đã đánh giá cao thành quả của Việt Nam trong sư đối phó với
dịch cúm gia cầm và xem Việt nam là một mô hình cho các nước phát triển
thực hiện theo.
Cũng theo công trình nghiên cứu đề cập ở trên (5), phân tích di truyền
của các họ virus cho thấy có nhiều loại khác nhau ở trên chim trời và gia
cầm, trong khi phân tích virus trước đây trên người bị nhiễm chỉ cho thấy hai
loại khác nhau. Thuốc phòng ngừa và chữa bệnh cho một loại virus có thể
chỉ có chút hay không hiệu nghiệm với loại virus khác. Các nhà nghiên cứu
đề nghị là một số các loại thuốc khác nhau được chế tạo và dự trữ trước để
sẵn sàng khi có dịch phát tán lan truyền trên thế giới ở con người. Hiện nay
các nước trên thế giới đã và đang sản xuất hay mua sẵn các loại thuốc cúm
như Tamiflu (chỉ có hiệu nghiệm cầm chừng) phòng sẵn khi dịch cúm gia
cầm nhiễm lên người và lan rộng. Một hiểm họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Tham khảo
(1) Dobson, A., What links bats to emerging infectious diseases,
Science, 28 Oct 2005, Vol 310, p. 628-629
(2) Normile, D., Are wild birds to blame, Science, 21 Oct 2005, Vol

310, p. 426-428.
(3) Butler, D., Wartime tactic doubles power of scarce bird-flu drug,
Nature, Nov 2005, Vol 438/3, p. 6.
(4) Diamond, J., Guns, germs and steel, Vintage, London, 2005.
(5) H. Chen, G. J. D. Smith et al., Establishment of multiple
sublineages of H5N1 influenza virus in Asia: Implications for pandemic
control, Proceeding of the National Academy of Sciences, 2006, 103: 2845-
2850

×