Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Kỹ thuật nuôi cá sặc rằn pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.64 KB, 7 trang )

KỸ THUẬT NUÔI CÁ SẶC RẰN
(Trichogaster pectoralis Regan, 1909)
I. Đặc điểm sinh học
1. Phân bố
Cá sặc rằn (Trichogaster pectoralis Regan, 1909) cũng là đối tượng nuôi quan
trọng hiện nay. Cá phân bố tự nhiên ở các thủy vực vùng Đông nam Á và Nam Việt
nam. Cá sinh sản tự nhiên trong ao, mương, kênh, rạch, rừng tràm và ruộng lúa. Cá
thích sống ở những thủy vực có nhiều cây cỏ thủy sinh với nhiều chất hữu cơ. Cà
mau, Bạc liêu, Sóc trăng, Cần Thơ và Kiên giang… là những tỉnh có cá phân bố tập
trung và sản lượng cao hiện nay ở ĐBSCL.
2. Sự thích nghi với môi trường
- Cá có cơ quan thở khí trời nên sống được ở điều kiện nước thiếu hoặc không
có oxy.
- Cá cũng có khả năng chịu đựng được môi trường nước bẩn, hàm lượng hữu cơ
cao cũng như môi trường có độ pH thấp (pH dao động từ 4 - 4,5).
- Nhiệt độ thích hợp cho cá từ 24 - 30
0
C, có thể chịu đựng được nhiệt độ 11 -
39
0
C.
3. Sự sinh trưởng, phát triển và tính ăn cá Sặc rằn
Trong điều kiện nhiệt độ 28 - 30
0
C trứng thụ tinh và nở sau 24 - 26 giờ. Cá sau
khi nở sẽ dinh dưỡng bằng noãn hoàng trong 2,5 - 3 ngày. Lúc này cá nổi trên mặt
nước. Sau khi tiêu hết noãn hoàng, cá con di chuyển xuống lớp nước dưới để kiếm
mồi. Cá ương trong ao đạt chiều dài 2 - 3 cm sau 30 - 35 ngày. Thức ăn cho cá con
ban đầu là động vật nhỏ như: luân trùng, các chất hữu cơ lơ lững trong nước, tảo phù
du. Cá càng lớn sử dụng càng nhiều loại thức ăn hơn, khi trưởng thành cá ăn thiên về
thực vật. Cá có chiều dài tối đa 25 cm. Cá sặc rằn chậm lớn, sau 2 năm nuôi cá đạt


trọng lượng 140g/con. Thức ăn cho cá thường là mùn bã hữu cơ. Khi nuôi trong ao,
ruộng cho ăn bổ sung như cám, phân động vật, bèo và các phụ phế phẩm khác.
4. Sinh học sinh sản cá sặc rằn
Cá sặc rằn thường đẻ vào mùa mưa từ tháng 4 - 10. Tuy nhiên trong điều kiện
nuôi trong ao (có cho ăn) cá đẻ quanh năm nhưng tập trung vẫn là những tháng mùa
mưa (tháng 4 - 8). Cá thành thục sinh dục khoảng 7 tháng tuổi. Cá đực có vây lưng
dài và nhọn, thân hình thon, bụng nhỏ. Ngược lại con cái có có vây lưng tròn và
ngắn, thường không vượt quá cuốn vây đuôi. Bụng cá lúc mang trứng căng tròn, nhìn
thẳng vuông gốc với vị trí đầu, bụng cá có hình chữ U. Trong tự nhiên cá đẻ trong
ruộng lúa, ao nuôi nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh. Khi sinh sản, cá đực và cá cái bắt
cặp tìm nơi có nhiều cây cỏ thủy sinh, ven bờ và kín đáo. Con đực làm tổ bằng nước
bọt dưới những tán hay lùm của cây cỏ. Sau đó cá đực đưa cá cái đến gần tổ và cong
mình ép cá cái đẻ trứng vào trong tổ. Trứng cá thuộc trứng nổi do có giọt dầu lớn.
Những trứng rơi vãi ra ngoài được cá đực gom lại và đưa vào tổ. Sau khi cá đẻ xong,
cá đực bảo vệ trứng chống những cá khác xâm nhập vào tổ, ngay cả cá cái. Trong
sinh sản nhân tạo, cá đẻ thường được kích thích bằng kích dục tố.
1
II. Kỹ thuật sinh sản cá sặc rằn
1. Chọn cá bố mẹ
Vào đầu mùa mưa, khi cá đã thành thục sinh dục, sẳn sàng đẻ trứng thì bắt cá
cho đẻ. Quá trình chọn cá bố mẹ cho sinh sản như sau:
 Chọn những cá bố mẹ khỏe mạnh, không xây xát.
 Chọn cá đực, cá cái
• Cá cái : bụng to mềm, lỗ hậu môn lồi và có màu hồng.
• Cá đực : màu sắc sặc sỡ, phần tia mềm ở lưng dài khỏi gốc vi đuôi.
2.
Kích thích cá sinh sản
a. Chuẩn bị cho cá đẻ
- Bể cá đẻ có thể là bể xi măng, bể composite, hoặc thau nhựa Rửa sạch
dụng cụ cho đẻ, lấy nước sạch với chiều sâu 20 - 40 cm.

- Lấy lá môn, hoặc lá sen úp trên mặt nước (mỗi cặp cá đẻ cần 1 lá để làm tổ).
b. Cho cá đẻ
Dùng kích dục tố HCG + não thùy thể cá với liều lượng là 1500UI HCG + 10 não
thùy thể cá chép chích cho 1 kg cá cái và cá đực dùng bằng 1/3 liều cá cái. Chích xong
cho cá vào bể đẻ (mỗi bể 1 - 2 cặp cá). Sau khi chích thuốc khoảng 15 - 20 giờ cá sẽ đẻ
trứng. Chờ cá đẻ xong, vớt trứng sang bể ấp ở nơi khác.
c. Ấp trứng cá
Bể ấp có thể dùng bể composite hoặc bể xi măng. Rửa sạch bể, lấy nước vào với
chiều sâu khoảng 40 - 60 cm. Trong thời gian ấp trứng, phải điều chỉnh sục khí để
trứng cá không gom lại 1 chổ và định kỳ thay nước 1lần/ngày. Sau khi cá nở 2.5 - 3
ngày, chuyển cá xuống ao đất để ương thành cá giống.
III. Kỹ thuật ưong cá
1. Chuẩn bị ao ương
Tùy thuộc vào diện tích có của nông hộ, tốt nhất từ 500 -1000m
2
, ao có dạng hình
chữ nhật có chiều dài gấp 2 - 3 lần chiều rộng. Độ sâu khoảng 1.2 -1.5m, đáy phẳng
hơi nghiêng về phía cống.
Dọn cỏ bờ, tát cạn nước, dùng rễ dây thuốc cá diệt cá tạp, cá dữ với liều lượng 0.2
- 0.3 kg/100m
3
, lấp kín các hang hốc.
Dùng vôi bột bón xung quanh bờ ao và đáy ao để cải tạo phèn, liều lượng từ 10 -
15 kg/100m
2
. Bón phân chuồng để tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho cá với liều lượng
15 - 20kg/100m
2
. Sau đó phơi ao từ 2 - 3 ngày và cho nước vào. Khoảng 3 - 4 ngày
sau, nước có màu xanh đọt chuối thì bắt đầu thả cá ương .

2. Kỹ thuật ương cá
Ương cá với mật độ khoảng 500 - 800cá bột/m
2
.
2
Cá Sặc rằn đực Cá Sặc rằn cái
Thả cá lúc sáng sớm hoặc chiều mát. Trước khi thả, nên ngâm túi cá trong
nước khoảng 10 - 15 phút để tránh cá bị sốc nhiệt, sau đó từ từ thả cá ra ngoài ao.
Dùng bột đậu nành, bột cá mịn, lòng đỏ trứng khuấy đều, tạt khắp mặt ao, cho
ăn ngày 3-4 lần, liều lượng chiếm khoảng 150 - 200 % trọng lượng thân cá nuôi.
Sau khoảng 15 - 20 ngày, trộn cám với bột cá với tỷ lệ bằng nhau cho cá ăn ngày
2-3lần, lượng thức ăn chiếm khoảng 15 - 20 % trọng lượng cá nuôi. Cho ăn như thế
đến khi cá đạt kích cỡ giống khoảng 500 - 700 con/kg.
Trong quá trình nuôi, nên thường xuyên theo dõi nước ao, nếu thấy dơ phải thay
nước, mỗi ngày thay 30 % nước cho đến khi nước tốt thì ngưng.
2. Thu hoạch
Sau khi ương 45 - 60 ngày, cá đạt kích cỡ khoảng 500 - 600 con/kg thì tiến hành
thu hoạch. Trước khi thu hoạch 1 tuần, hằng ngày phải luyện cá bằng cách làm đụt
nước ao. Dùng lưới có kích thước mắt lưới nhỏ kéo cá, để tránh cá bị xay sát. Trong
quá trình thu hoạch các thao tác phải thật nhanh và nhẹ nhàng tránh làm cá mệt, sẽ
hao hụt nhiều trong vận chuyển.
IV. Kỹ thuật nuôi cá sặc rằn thưong phẩm
1. Kỹ thuật nuôi cá sặc rằn trong ao
a. Chọn lựa địa điểm và diện tích
Ao gần nơi có nguồn nước sạch và có cống cấp thoất nước chủ đông. Bờ ao phải
cao hơn mực nước lũ cao nhất là 0,5 m và cải tạo ao
Diện tích: 200 - 1000 m
2
, có thể nuôi ở diện tích lớn hơn tùy theo từng hộ nuôi.
Ðộ sâu 1 - 1,5 m.

b. Cải tạo ao
- Tát cạn sên vét bùn đáy ao chỉ còn lại 10 - 20 cm.
- Dọn sạch cỏ xung quanh ao, lấp các lỗ mội, diệt sạch cá tạp cá dữ…
- Bón vôi 7 - 10 kg/100 m
2
.
- Phơi nắng 2 - 3 ngày.
- Bón phân chuồng 30 - 40 kg/100 m
2
ao.
- Lấy nước vàoao qua túi lọc mịn (30 - 40 cm).
- Sau 2 - 3 ngày cho phân chuồng phân hủy rồi lấy nước vào cho đủ rồi thả cá.
c. Chọn và thả giống
Cá khỏe không xây xát, không dị hình, đồng cỡ.
Kích cỡ cá 4 - 6 cm/con
Mật độ thả 15 - 20 con/m
2
Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát để tránh sốc nhiệt độ. Trứoc khi thả cần
ngâm bao trong ao khoảng 15 - 20 phút.
d. Cho ăn - chăm sóc
Cho cá sặc rằn ăn gồm: cám, bột cá (loại cá tươi hoặc phụ phẩm của nhà máy)
xay nhỏ cho cá ăn.
Thành phần: cám 60% + bột cá 40%.
Khẩu phần thức ăn : 5 - 7% trọng lượng cá/ngày.
Làm sàn thả thức ăn để dễ kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày.
Cho ăn ngày 2 lần.
3
Có thể bón phân chuồng bổ sung 2 tuần/lần 30 - 40 kg/100 m2 ao để tăng thức
ăn tự nhiên cho cá.
Hiện nay, trên thị trưòng có bán thức ăn công nghiệp chuyên dùng cho cá có

vẫy.
Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá.
e. Thu hoạch
Sau 8 - 10 tháng cá đạt trọng lượng 100 - 150 g/con thì có thể thu hoạch được.
2. Kỹ thuật nuôi trong ruộng lúa
a. Chuẩn bị ruộng
- Chọn ruộng có bờ bao cao hơn đỉnh lũ 0,5 m.
- Có diện tích mương bao 15 - 30% diện tích ruộng.
- Mương bao có bề ngang 2 - 3 m sâu 1 - 1,5 m chạy dài xung quanh ruộng.
- Có vị trí gần kênh rạch để cấp thoát nước.
b. Cải tạo (như phần nuôi trong ao)
- Tát cạn sên vét bùn đáy ao chỉ còn lại 10 - 20 cm.
- Dọn sạch cỏ xung quanh ao, lấp các lỗ mội, diệt sạch cá tạp cá dữ…
- Bón vôi 7 - 10 kg/100 m
2
.
- Phơi nắng 2 - 3 ngày.
- Bón phân chuồng 30 - 40 kg/100 m
2
ao.
- Lấy nước vàoao qua túi lọc mịn (30 - 40 cm).
- Sau 2 - 3 ngày cho phân chuồng phân hủy rồi lấy nước vào cho đủ rồi thả cá.
c. Cá giống
- Mật độ thả 2 - 3 con/m
2
- Kích cỡ cá giống 4 - 6 cm/con
- Cá khỏe không xây xát, không dị hình, đồng cỡ.
- Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.
- Cá giống được thả ở mương bao sau đó cho nước ngập ruộng để cá tự kiếm
ăn thêm.

d. Cho ăn - chăm sóc
nuôi mật độ thưa không cần phải cho ăn, cá ăn thức ăn sẳn có trên đồng ruộng.
Nếu mật độ nuôi cao cần bổ sung nguồn thức ăn từ bên ngoài như:
Cám + bột cá
Ngày cho ăn 2 lần, lượng thức ăn 5 - 7% trọng lượng cá/ngày.
Có thể 2 tuần/lần bón 20 - 30 kg phân chuồng, vừa làm thức ăn cho cá vừa giúp
lúa phát triển tốt.
Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá.
e. Thu hoạch
Sau 8 - 10 tháng nuôi cá đạt cỡ 80 - 120 g/con có thể thu hoạch được.
3. Kỹ thuật nuôi cá sặc rằn kết hợp
Cá sặc rằn là đối tượng thích hợp nuôi ở ruộng cấy lúa mùa một vụ vào mùa mưa
vùng ven biển các tỉnh Minh Hải, Kiên Giang, Cá sặc rằn thường được nuôi chung
với cá lóc, trê vàng, cá thát lát, rô đồng. Trong đó cá sặc rằn chiếm tỷ lệ 60 - 70 %.
Mật độ thả của cá sặc rằn là 1 - 2 con/m
2
. Cá nuôi chủ yếu sử dụng thức ăn tự nhiên ở
ruộng, thức ăn bổ sung ít được chú ý. Năng suất nuôi đạt từ 100 - 300 kg/ha/năm. Cá
4
sặc rằn cũng thích hợp nuôi ở ao với mô hình nuôi kết hợp (cá - heo, cá - gà, cá -
vịt ). Có thể áp dụng phương pháp nuôi đơn hoặc nuôi ghép với một số loài cá
khác như cá mè trắng, cá hường, rô phi, chép. Đối với mô hình nuôi kết hợp Heo -
Cá, mật độ heo thả nuôi dao động từ 120 - 150 con/ha, người nuôi có thể thả ghép
giữa cá sặc rằn cùng với 1 số lòai cá khác như hường, rô phi, tai tượng hoặc chép với
mật độ 5 - 7 con/m
2
, sẽ cho kết quả về năng suất nuôi cùng hiệu quả mang lại cho
nông hộ rất tốt. Năng suất có thể đạt được dao động từ 3.800 - 4.300 kg/ha sau 6
tháng nuôi.
Thu họach cá Sặc rằn trong mô hình Heo - cá kết hợp

V. Một số bệnh thường gặp trên cá sặc rằn và cách điều trị
1. Bệnh xuất huyết
Bệnh thường xuất hiện lúc giao mùa (tháng 11-12 hoặc tháng 2 - 3 dương lịch).
Dấu hiệu bệnh: Cá bơi lờ đờ trên mặt nước, trên thân xuất hiện những đốm đỏ li
ti. Cá ít ăn hoặc bỏ ăn.
Cách phòng trị:
Thường xuyên thay nước ao, bón vôi với liều lượng 4 - 6kg/100m
2
mặt nước.
Nếu cá còn sử dụng thức ăn, ta trộn thuốc vào thức ăn với liều lượng:
Oxytetracyline 4-6 g/100 kg thức ăn; Nitrofurazol 4 - 8 g/100kg cá bệnh; Vitamin C 2
- 6 g/100 kg thức ăn.
2. Bệnh nấm thủy mi
Bệnh thường xảy ra vào mùa mưa và thời tiết lạnh khi nhiệt độ dưới 20
0
C, cá bị
xay xát, hoặc do viêm nhiễm ngoài da.
Dấu hiệu bệnh lý: Trên da xuất hiện vùng trắng như bông gòn.
Cách phòng trị
Để phòng bệnh do nấm thủy mi, ao ương nuôi cần phải tẩy dọn kỹ sau mỗi vụ
nuôi. Tránh cá bị xay xát khi vận chuyển hoặc đánh bắt. Dùng nước muối tắm cá 8 -
10 phút trước khi thả nuôi.
Dùng Malachite Green với liều lượng 1- 2g/m
3
tắm cá trong thời gian 30 phút,
hoặc liều lượng 0.1 - 0.2 g/m
3
tắm cá trong 24 giờ.
3. Bệnh đốm trắng (bệnh trùng quả dưa)
5

- Nguyên nhân bệnh là do trùng quả dưa. Có hai giai đoạn trong chu kỳ sống của
trùng quả dưa, đầu tiên là giai đoạn trưởng thành, kế đến là giai đoạn ấu trùng.
Trong giai đoạn trưởng thành trùng quả dưa được nhìn thấy dưới da hoặc mang cá
có thể nhìn thấy như những đốm trắng bằng mắt thường.
Khi trùng quả dưa trưởng thành, chúng sẽ tách ra khỏi da cá và sinh sản bằng cách
phân chia tế bào bên trong vách dày của tế bào. Khi chúng trưởng thành tế bào sẽ bị
vỡ và những ấu trùng sẽ thoát vào môi trường nuôi, ấu trùng sẽ lội trong nước và sẽ
tấn công vào da hoặc mang của ký chủ (cá) trong vòng 24 giờ. Sự tấn công của ấu
trùng đôi khi phá vỡ mô của cá và chính vì điều này làm cho cá bột trở nên yếu đi
và chết đột ngột. Đối với cá bột nhiễm bệnh vây sẽ rách tơi và cơ thể nhợt nhạt. Nếu
việc điều trị không thích hợp và kịp thời thì cả đàn cá bột trong ao ương sẽ chết
trong 2 - 3 ngày.
Dấu hiệu bệnh lý: trong giai đoạn đầu của bệnh sẽ xuất hiện những đốm màu
trắng bằng đầu kim hoặc nhỏ hơn trên thân cá. Sau xuất hiện các đốm trắng trên da
cá và vây cá bị tua ra. Cá bột bơi lội chậm chạp và tỷ lệ chết cao.
Cách phòng trị: để trị bệnh này có kết quả tốt cần phải điều trị thành nhiều
đợt nối tiếp nhau. Nhìn chung có thể dùng 25 ml Formol trong 1 m3 nước ao, trị 3
lần cách nhau 3 ngày 1 lần thì sẽ có hiệu quả. Sau mỗi lần điều trị nước trong ao sẽ
không được thay trong suốt 40 giờ, do đó trong thời gian trị liệu số lượng Moina
(trứng nước) hoặc những thức ăn khác của cá bột sẽ phải giảm để ngăn chặn sự ô
nhiễm nước. Lịch điều trị sẽ như sau :
+ Ngày 1 : tắm Formol cho cá 1 lần.
+ Ngày 3 : thay khoảng 75% nước ao và tắm Formol lần 2.
+ Ngày 6: thay 20 - 25% lượng nước và tắm Formol lần 3 và giữ nguyên trong 2
ngày.
+ Ngày 8 : sau 8 ngày cá bột sẽ khỏe mạnh và không cần tiếp tục điều trị nữa.
Cần chú ý rằng bệnh đốm trắng có thể lây lan rất nhanh sang các ao khác. Vì thế
các ao lân cận nhiễm bệnh cũng phải được điều trị với liều lượng 25 ppm formol
cùng lúc với ao bệnh. Đồng thời những ống dẫn nước, lưới kéo và vợt cũng cần phải
6

tẩy trùng bằng cách ngâm vào dung dịch 200 ppm Formol (tức 20 ml Formol trong
100 lít nước) ít nhất 1 giờ, sau đó xả nước lại và phơi nắng.
4. Bệnh trùng bánh xe
Thường gây bệnh trên nhiều loài cá khác nhau: trê, basa, tai tượng, chép, mè,
trôi, lóc bông,… gây thiệt hại lớn ở giai đoạn cá hương, cá giống. Bệnh thường xảy
ra ở các bể, ao ương với mật độ dày và môi trường nuôi quá dơ bẩn. Ở ĐBSCL
trùng mặt trời hầu như phát triển quanh năm nhưng cao điểm vào mùa nắng.
Dấu hiệu bệnh lý: khi cá nhiễm trùng mặt trời, trên thân cá có lớp màu hơi
trắng đục, da cá sậm lại, mang cá nhợt nhạt, cá giảm ăn và nổi đầu từng đàn trên
mặt nước. Ở cá trê giống bị nhiễm bệnh này các vây cá bị rách tơi và râu cá bị cong
nên còn gọi là bệnh “quéo râu”.
Cách phòng trị: đây là bệnh ngoại ký sinh, do đó tùy vào điều kiện thực tế có
thể dùng một trong những loại hóa chất sau đây để xử lý cá bệnh:
+ Khi ương cá con dưới ao nhiễm bệnh này, tốt nhất nên dùng Sulfat đồng (phèn
xanh) phun khắp ao với liều lượng 0,3 – 0,5 g/m 3 nước ao trị 2 – 3 lần, mỗi lần cách
nhau 1 ngày. Khi sử dụng phèn xanh cần tính chính xác thể tích nước ao.
+ Để trị cá bị trùng mặt trời ương trên bể xi măng nên dùng xanh Malachite với
nồng độ 1 - 2 g/m3 nước bể, tắm cho cá trong thời gian 30 phút (đã bị cấm sử dụng)
hoặc dùng Formol với liều lượng 25 ml/m
3
bể. Trị 3 ngày liên tục. Nên trị bệnh cá
lúc mát trời và trong thời gian trị bệnh nên giảm lượng thức ăn đi một nửa.
Biện pháp tốt nhất để phòng bệnh trùng mặt trời là giữ gìn vệ sinh bể ương sạch sẽ,
mật độ ương vừa phải, tránh thức ăn dư thừa ở đáy ao. Trước khi ương nuôi cá phải
tẩy vôi, diệt mầm bệnh./.
7

×