Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Tâm lí học dạy học đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.04 KB, 58 trang )

TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC ĐẠI HỌC
(Dùng cho lớp nghiệp vụ sư phạm đại học)
CHƯƠNG1: BẢN CHẤT, CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN
TÂM LÝ NGƯỜI.
1. Bản chất tâm lý người
1.1. Tâm lý là gì ?
-Tâm lý được hiểu: là tất cả những hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc
con người, gắn liền và điều hành mọi hành động và hoạt động của con người.
- Tâm lý học (TLH) là khoa học nghiên cứu tâm lý.
1.2. Bản chất hiện tượng tâm lý người theo quan điểm TLH duy vật biện
chứng
Tâm lý học duy vật biện chứng khẳng định : Tâm lý người là sự phản ánh hiện
thực khách quan vào não người thông qua chủ thể, tâm lý người có bản chất xã hội –
lịch sử.
1.2.1. Tâm lý là chức năng của não
Điều này cũng khẳng định rằng : Tâm lý người không phải do thượng đế, cũng
không phải do não tiết ra như “gan tiết ra mật”. Tâm lý là thuộc tính của bộ não người
hoạt động bình thường, biểu hiện ở năng lực phản ánh thế giới bên ngoài thành hình
ảnh tinh thần bên trong, “ ý thức, tâm lý, ... là sản phẩm của vật chất có tổ chức cao, là
chức năng của khối vật chất đặc biệt phức tạp là não người” (V.I.Lênin, chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa phê phán, NXB Sự thật 1960, tr 314).
Tất cả các quá trình tâm lý từ đơn giản đến phức tạp đều xuất hiện trên cơ sở hoạt
động của não. Các quá trình sinh lý diễn ra trong não là cơ sở vật chất của hoạt động
tâm lý nhưng không đồng nhất với tâm lý. Tâm lý bao giờ cũng có nội dung nhất định.
Tất cả các hình ảnh tâm lý, kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân đều tồn tại trong bộ
não. Nhưng không phải cứ có bộ não là có tâm lý. Muốn có tâm lý phải có tồn tại
khách quan, tồn tại ấy phải tác động vào bộ não và bộ não phải tiếp nhận được những
tác động ấy (tức là não hoạt động). Đơn vị của hoạt động não là bộ phản xạ. Có hai
loại phản xạ: phản xạ có điều kiện và phản xạ không điều kiện. Phản xạ không điều
kiện là cơ sở sinh lý của các hoạt động tâm lý. Muốn có tâm lý, nhất thiết phải có phản
xạ có điều kiện, có hệ thống chức năng thần kinh cơ động. Nói cách khác tâm lý có


bản chất phản xạ.
1.2.2. Tâm lý người mang tính chủ thể
1
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi sự vật hiện tượng đang vận động. Đó là
sự tác động qua lại giữa hai hệ thống và kết quả là để lại dấu vết tác động ở cả hai hệ
thống.
VD: Phấn -> bảng = chữ trên bảng + phấn bị mòn.
Nhưng phản ánh tâm lý là một loại phản ánh đặc biệt khác về chất so với các
loại phản ánh khác, biểu hiện ở chỗ:
- Đó là sự phản ánh hiện thực khách quan của bộ não con người - tổ chức cao
nhất của vật chất. Chỉ có hệ thần kinh và bộ não con người mới có khả năng nhận tác
động của hiện thực khách quan tạo ra trên não hình ảnh tinh thần về hiện thực khách
quan đó (hình ảnh tâm lý). VD …
- Phản ánh tâm lý tạo ra “ hình ảnh tâm lý” như một bản sao về thế giới. Song
nó khác về vật chất so với các phản ánh cơ, vật lý … ở chỗ:
+ Hình ảnh tâm lý mang tính tích cực, sinh động và sáng tạo.
Ví dụ: hình ảnh quyển sách trong gương khác với trong đầu người biết chữ .
+ Hình ảnh tâm lý mang tính chủ thể, mang đậm màu sắc cá nhân, hay nhóm
người mang hình ảnh tâm lý đó. Nói cách khác, hình ảnh tâm lý là hình ảnh chủ quan
về hiện thực khách quan.
Tính chủ thể trong phản ánh tâm lý thể hiện ở chỗ:
* Cùng nhận một sự tác động của thế giới nhưng ở những chủ thể khác nhau
cho ta những hình ảnh tâm lý với những mức độ, sắc thái biểu hiện khác nhau.
* Cùng một hiện thực khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng
vào thời điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau, với trạng thái cơ thể, trạng
thái tinh thần khác nhau, có thể cho ta hình ảnh tâm lý có mức độ và các sắc thái biểu
hiện tâm lý khác nhau ở chủ thể ấy.
* Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể
hiện hình ảnh tâm lý đó rõ nhất và thông qua các mức độ và sắc thái tâm lý khác nhau
mà mỗi chủ thể tỏ thái độ, hành vi khác nhau đối với hiện thực. VD …

Cơ sở hình thành tính chủ thể của tâm lý người:
Ở mỗi người khác nhau có đời sống tâm lý khác nhau, bởi vì: Trong quá trình
hình thành và phát triển tâm lý ở mỗi người đã chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: Đặc
điểm sinh học (cơ thể), hoàn cảnh sống, điều kiện giáo dục, khả năng và tính tích cực
hoạt động, giao lưu… Trong đó ở mỗi người lại có những đặc điểm riêng về cấu tạo
cơ thể, hệ thần kinh và não bộ, có hoàn cảnh sống, điều kiện giáo dục, đặc biệt mỗi
người thể hiện mức độ tích cực hoạt động và giao tiếp khác nhau trong cuộc sống, tạo
nên vốn sống, vốn kinh nghiệm, đặc điểm tâm lý của mỗi người khác nhau thì khác
nhau.
2
Khi tạo ra hình ảnh tâm lí về thế giới, mỗi chủ thể đã đưa (tâm lý): vốn hiểu
biết, vốn kinh nghiệm và cả những đặc điểm riêng của mình (nhu cầu, hứng thú, xu
hướng, tính cách, năng lực...) vào trong hình ảnh đó, làm cho nó mang tính chủ thể và
mang đậm tính cá nhân. VD …
* Kết luận sư phạm :
- Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não nên khi nghiên
cứu tâm lý con người phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt
động.
- Hình thành, phát triển tâm lý tích cực cần phải xây dựng môi trường giáo dục
lành mạnh để mọi người sống và hoạt động trong đó.
- Tâm lý người mang đậm tính chủ thể vì vậy dạy học và giáo dục cần phải chú
ý đến đặc điểm riêng của từng người.
1.2.3. Tâm lý người mang bản chất xã hội lịch sử
Luận điểm này chứng minh rõ ràng tính chất khác nhau cơ bản giữa tâm lý
người với tâm lý động vật .
Bản chất xã hội lịch sử của Tâm lý người thể hiện :
- Tâm lý người có nguồn gốc xã hội, biểu hiện: Tâm lý người là sự phản ánh
hiện thực khách quan vào não của mỗi người. Hiện thực khách quan bao gồm: hiện
thực tự nhiên và hiện thực xã hội, trong đó hiện thực xã hội là cái quyết định đến tâm
lý người. Ngay cả phần tự nhiên trong thế giới cũng được xã hội hóa (được bàn tay

con người cải biến theo cách của họ). Phần xã hội của thế giới quyết định tâm lý người
thể hiện qua: các mối quan hệ về kinh tế - xã hội, các quan hệ đạo đức, pháp quyền,
quan hệ người – người từ các quan hệ gia đình, làng xóm, đến các nhóm, cộng đồng…
Tất cả các mối quan hệ trên quyết định đến bản chất tâm lý người. Nên sống và hoạt
động nơi có các mối quan hệ xã hội càng đa dạng càng phong phú, đời sống xã hội,
nền văn hóa xã hội càng phát triển ….. thì tâm lý người càng phong phú, càng phát
triển. Và con người sống trong điều kiện xã hội nào sẽ mang những đặc điểm của xã
hội ấy. VD …
- Tâm lý người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người trong các
mối quan hệ xã hội. Thông qua hoạt động và giao tiếp với tư cách là chủ thể, một mặt
con người đã biến kinh nghiệm lịch sử- xã hội , nền văn hóa xã hội của các thế hệ đi
trước thành kinh nghiệm, tri thức cho riêng mình qua cơ chế lĩnh hội. Mặt khác con
người còn là một chủ thể tích cực, sáng tạo trong hoạt động cải biến xã hội, nhờ đó cải
biến tâm lý làm cho nó mang đầy đủ các dấu ấn xã hội, lịch sử của con người.
3
- Tâm lý của mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn sống,
vốn kinh nghiệm, nền văn hóa xã hội thông qua hoạt động, giao tiếp … trong đó giáo
dục giữ vai trò chủ đạo còn hoạt đông và giao tiếp giữ vai trò quyết định.
- Tâm lý của mỗi người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát
triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lý của mỗi con người chịu
sự chế ước bởi lịch sử của cá nhân và cộng đồng.
* Kết luận sư phạm
- Tâm lý người có nguồn gốc xã hội vì thế nghiên cứu tâm lý người phải nghiên
cứu môi trường xã hội, nền văn hóa xã hội, các quan hệ xã hội trong đó con người
sống và hoạt động.
- Cần phải tổ chức có hiệu quả hoạt động dạy học và giáo dục cũng như các
hoạt động chủ đạo, hoạt động tập thể ở từng lứa tuổi để hình thành và phát triển tâm lý
cho thế hệ trẻ.
- Cần phải nhìn nhận con người ở góc độ vận động và phát triển .
2. Các quy luật hình thành và phát triển tâm lý

2.1. Quy luật về mối quan hệ giữa các điều kiện sinh học và sự hình thành, phát
triển tâm lý
2.1.1. Điều kiện sinh học:
Điều kiện sinh học được hiểu là toàn bộ cấu tạo giải phẫu sinh lí và những đặc
điểm của cơ thể (đặc điểm của các giác quan, của hệ thần kinh, hoạt động của các cơ
quan trong cơ thể).
2.1.2. Mối quan hệ giữa điều kiện sinh học với sự phát triển tâm lý
Sự ảnh hưởng của điều kiện sinh học đối với sự phát triển tâm lí thể hiện ở
những điểm sau:
- Chất lượng hoạt động của các giác quan sẽ có ảnh hưởng nhất định đến các
chức năng tâm lí, chẳng hạn người có tai thính có thể hoạt động tốt trong lĩnh vực âm
nhạc, ngược lại bị điếc bẩm sinh hay do bệnh tật thì hoạt động thính giác sẽ có nhiều
hạn chế...
- Kiểu hoạt động thần kinh cấp cao (mạnh, yếu, cân bằng hay không cân bằng...)
tạo nên những cách bộc lộ của các hoạt động tâm lí khác nhau, khiến cho hành vi của
mỗi người mang sắc thái riêng biệt, chẳng hạn những người có kiểu thần kinh mạnh
không cân bằng thường nóng tính và hành vi thường nhanh, mạnh, nhưng độ chính xác
không cao, những người có kiểu thần kinh yêú thì nhút nhát, sợ sệt, hành vi nhẹ
nhàng, nhưng tốc độ và hiệu quả công việc thấp...
- Những độc tố có trong cơ thể người mẹ sẽ truyền sang cơ thể đứa con và ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm lí đứa con người mẹ đó, đặc biệt là trí tuệ, chẳng hạn con
4
của người nhiễm chất độc màu da cam, người nghiện ma túy, nghiện rượu...thì hoạt
động của vỏ bán cầu đại não của những đứa trẻ đó không bình thường.
Tóm lại, bộ não của con người cùng với đặc điểm cơ quan của cơ thể là tiền đề
vật chất để một cá thể trở thành một con người. Điều kiện sinh học tạo ra những mầm
mống năng lực trong bản chất tư nhiên của con người, tạo điều kiện để con người có
thể hoạt động thành công trong một lĩnh vực nhất định. Điều kiện sinh học có ảnh
hưởng nhất định đến sự phát triển tâm lí. Hay nói cách khác sự phát triển tâm lí của
con người chỉ diễn ra một cách tốt đẹp trên nền tảng của điều kiện sinh học thuận lợi.

Do vậy mọi sự khiếm khuyết trong điều kiện sinh học đều ảnh hưởng không tốt tới sự
phát triển tâm lí
2.2. Quy luật về mối quan hệ giữa nền văn hóa xã hội và sự hình thành, phát
triển tâm lý
2.2.1. Khái niệm nền văn hóa
Nền văn hóa được hiểu là những kinh nghiệm xã hội- lịch sử, những thành tựu
mà loài người đã tích luỹ được trong suốt tiến trình lịch sử phát triển của họ.
Nền văn hóa có 2 hình thái tồn tại, đó là văn hoá vật chất như: công cụ sản xuất,
đồ dùng hàng ngày… và văn hoá tinh thần như: các tác phẩm văn học nghệ thuật,
những truyền thống, những phong tục tập quán, những sáng kiến phát minh khoa học...
Hai hình thái này có quan hệ chặt chẽ với nhau, đan xen vào nhau, không thể tách rời
nhau được.
2.2.2. Mối quan hệ giữa nền văn hóa với sự phát triển tâm lí
Nền văn hóa có một vai trò quan trọng đối với sự phát triển tâm lí, biểu hiện
như sau:
- Nền văn hóa xã hội là nguồn gốc của sự phát triển tâm lí.
Chúng ta biết rằng tâm lý là sự phản ánh thế giới khách quan của não, sống
trong một môi trường văn hoá xã hội con người chịu sự tác động của môi trường đó,
đồng thời phản ánh nó tạo nên tâm lý của mình.
- Nền văn hóa là nội dung của sự hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách con
người: Như trên đã trình bày, con người tiếp xúc và phản ánh những nội dung, tính
chất của một nền văn hoá xã hội nào đó để hình thành và phát triển tâm lý của mình,
hay chịu sự chi phối bởi nền văn hóa mà nó tiếp xúc, đó là văn hóa gia đình, văn hóa
làng xã, văn hóa cộng đồng… Thông qua những phong tục, tập quán, những truyền
thống văn hóa của từng dân tộc, từng quốc gia, từng địa phương, từng vùng miền, của
từng gia đình mà tạo ra sự đa dạng, những nét riêng trong tâm lý, nhân cách của từng
người. VD ... Sự khác biệt giữa các nền văn hóa tạo nên sự khác biệt trong tâm lí giữa
những người sống trong những điều kiện văn hóa khác nhau đó. VD ...
5
Nếu người nào sớm được tiếp xúc với một nền văn hóa phát triển cao thì đó là

điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển nhân cách. VD .... Ngược lại, nền
văn hóa mà con người tiếp xúc quá thấp kém thì đó là điều bất lợi cho sự phát triển
tâm lý, nhân cách và đó là nguyên nhân của sự phiến diện, sai lệch trong nhân cách
của họ sau này. VD ...
2.3. QL về mối quan hệ giữa giáo dục và sự hình thành, phát triển tâm lý
2.3.1. Giáo dục là gì?
- Giáo dục là một hiện tượng xã hội, là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch, ảnh hưởng tự giác, chủ động đến con người, đưa đến sự hình thành và phát
triển tâm lý, ý thức nhân cách của trẻ.
- Giáo dục cũng được hiểu là quá trình mà thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau
những kinh nghiệm lịch sử- xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống
và lao động để đảm bảo sự phát triển hơn nữa của xã hội và cá nhân.
2.3.2. Mối quan hệ giữa giáo dục đối với sự phát triển tâm lí
Giáo dục được coi là giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển tâm
lí . Thể hiện ở những điểm sau:
- Giáo dục luôn định hướng sự phát triển tâm lí thông qua việc đưa ra mục tiêu
giáo dục, từ đó lựa chọn nội dung, phương pháp, những hình thức tổ chức hoạt động
sao cho có thể hình thành được những phẩm chất tâm lí, nhân cách cần thiết đáp ứng
yêu cầu của xã hội.
- Giáo dục là quá trình mà thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những kinh
nghiệm lịch sử- xã hội một cách có mục đích, có kế hoạch, có sự lựa chọn những biện
pháp để mang lại hiệu quả cao nhất đáp ứng với yêu cầu của xã hội.
- Giáo dục luôn đi trước sự phát triển, giáo dục bao giờ cũng tính đến các yếu tố
có ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển tâm lí, nhân cách, phát huy thế mạnh của
từng yếu tố đó đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển như: giáo dục có
thể phát hiện sớm những đặc điểm sinh học của con người (năng khiếu) đưa họ vào
môi trường rèn luyện tốt, làm phát huy hết những thế mạnh của nó để tâm lý, nhân
cách phát triển tốt nhất. VD ... Hoặc GD hướng cho con người tiếp nhận những mặt
tích cực từ môi trường, đưa họ vào môi trường, hoàn cảnh tốt tạo thuận lợi cho sự phát
triển tâm lý, nhân cách. VD ..., đặc biệt GD còn tổ chức cho con người tích cực tham

gia các họat động, các mối quan hệ giao lưu đa dạng, phong phú để thực hiện mục
đích của giáo dục. VD ...
- Một mặt GD chủ động phát huy ảnh hưởng tích cực của các điều kiện đến sự
phát triển tâm lý của con người, đồng thời cũng loại trừ họăc làm suy yếu những ảnh
hưởng và tác động bất lợi của các điều kiện đó đến tâm lý. VD: Điều kiện sinh học:
6
phát hiện trẻ khuyết tật đưa vào trường GD đặc biệt hoặc có cách GD riêng, .... Điều
kiện môi trường: Xây dựng đưa con người vào sống và hoạt động trong môi trường
tốt đẹp; Cách ly hoặc giúp con người “miễn dịch” với môi trường xấu .....
- GD có thể uốn nắn những sai lệch về một mặt nào đó trong tâm lý của con
người so với chuẩn mực xã hội làm nó phát triển theo chiều hướng mong muốn của xã
hội.
Tóm lại, giáo dục có thể tác động đến mọi yếu tố bên trong cũng như bên ngoài
ảnh hưởng đến sự phát triển của con người, song chúng ta không nên cho giáo dục là
vạn năng, bởi và mọi sự tác động từ bên ngoài đều phải qua cái bên trong, và luôn tính
đến các điều kiện sinh học, hoàn cảnh sống, hoạt động ... để có những biện pháp giáo
dục thích hợp giúp con người trở thành một nhân cách phát triển toàn diện.
2.4. Quy luật về mối quan hệ giữa hoạt động, giao tiếp và sự hình thành, phát
triển tâm lý
2.4.1. Hoạt động và tâm lý:
2.4.1.1. Khái niệm hoạt động.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về hoạt động tuỳ theo góc độ xem xét.
- Theo quan điểm sinh học: Hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và
cơ bắp của con người khi tác động vào hiện thực khách quan nhằm thoả mãn nhu cầu
vật chất và tinh thần của con người.
- Theo quan điểm triết học, hoạt động là phương thức tồn tại của con người
trong thế giới.
- Theo phương diện tâm lý học: Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại
giữa con người (chủ thể) và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới,
cả về phía con người..

2.4.1.2. Mối quan hệ giữa hoạt động với sự hình thành, phát triển tâm lý.
Từ khái niệm cho thấy, hoạt động gồm hai quá trình diễn ra đồng thời, bổ sung
cho nhau và thống nhất với nhau, đó là: Quá trình đối tượng hoá và quá trình chủ thể
hoá.
+ Quá trình đối tượng hoá (còn gọi là quá trình xuất tâm), trong quá trình này
con người chuyển năng lực của mình thành sản phẩm của hoạt động. Nói cách khác,
tâm lý của con người được bộc lộ, được khách quan hoá trong quá trình làm ra sản
phẩm. Qua sản phẩm có thể nhận xét, đánh giá được các đặc điểm của chủ thể làm ra
sản phẩm đó, và bản thân chủ thể cũng có thể tự đánh giá được về mình, từ đó tiếp tục
điều chỉnh, hoàn thiện bản thân mình.
+ Quá trình chủ thể hoá (còn gọi là quá trình nhập tâm) – Trong quá trình hoạt
động con người chuyển từ phía khách thể vào bản thân mình những đặc điểm, bản
7
chất, qui luật của sự vật hiện tượng trong thế giới vào bản thân mình tạo nên tâm lý, ý
thức, nhân cách của bản thân, bằng cách chiếm lĩnh (lĩnh hội) thế giới. Hay nói khác
đi là tâm lý, ý thức, nhân cách của con người được tạo nên từ quá trình chiếm lĩnh thế
giới.
Như vậy, Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định
trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là hoạt động
có mục đích, mang tính xã hội, mang tính cộng đồng, được thực hiện bằng những thao
tác nhất định với những công cụ nhất định. Trong hoạt động con người vừa tạo ra sản
phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lý của mình, hay nói khác tâm lý, ý thức nhân
cách được bộc lộ hình thành và phát triển trong hoạt động.
2.4.2. Giao tiếp và tâm lý.
2.4.2.1. Khái niệm giao tiếp: Giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa con người với
con người, thông qua đó, con người trao đổi với nhau về thông tin, về xúc cảm, tri giác
lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau.
Nói cách khác: Giao tiếp là quá trình xác lập và vận hành các quan hệ người -
người, hiện thực hoá các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác
Mối quan hệ này giữa con người với con người có thể xảy ra với các hình thức

khác nhau:
- Giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân.
- Giao tiếp giữa cá nhân với nhóm.
- Giao tiếp giữa nhóm với nhóm, giữa nhóm với cộng đồng, với xã hội,...
Giao tiếp vừa mang tính chất xã hội, vừa mang tính chất cá nhân. Tính chất xã
hội của giao tiếp thể hiện ở chỗ, nó được nảy sinh, hình thành trong xã hội và sử dụng
các phương tiện do con người làm ra, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tính
chất cá nhân thể hiện ở nội dung, phạm vi, nhu cầu, phong cách, kỹ năng ... của mỗi
người.
2.4.2.2. Mối quan hệ giữa giao tiếp đối với sự hình thành và phát triển tâm lý.
- Giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội loài người. Nhu cầu giao
tiếp là nhu cầu xã hội cơ bản và xuất hiện sớm nhất ở con người. Nếu quá trình giao
tiếp bị hạn chế bởi phạm vi tiếp xúc, nội dung quá nghèo nàn thì nhất định sẽ dẫn đến
hậu quả rất nặng nề và dễ mắc bệnh gọi là bệnh đói giao tiếp.
- Nhờ giao tiếp con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội phức tạp, chiếm
lĩnh nền văn hoá xã hội, qui tắc đạo đức xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực xã hội để làm
thành bản chất người trong mỗi con người, làm nên nhân cách của chính mình như
C. Mac đã nói: “Trong tính hiện thực của nó nhân cách là sự tổng hoà các mối quan hệ
xã hội”.
8
- Khi tham gia vào quá trình giao tiếp con người nhận thức được chính bản
thân mình, từ đó hình thành năng lực tự đánh giá, tự ý thức , thông qua sự so sánh
mình, đối chiếu mình với người khác, với chuẩn mực xã hội, với yêu cầu xã hội, tự
đánh giá mình như một nhân cách để hình thành một thái độ giá trị - cảm xúc nhất
định đối với bản thân để tự hoàn thiện mình theo yêu cầu xã hội hoặc tự hoàn thiện
mình theo mong muốn.
- Thông qua giao tiếp con người đóng góp tài lực của mình vào kho tàng chung
của nhân loại, của xã hội.
- Đối với con người, giao tiếp không chỉ giúp họ phát triển nhận thức, phát triển
năng lực tự giáo dục mà còn góp phần tạo nên nhân cách nghề nghiệp tương lai của

họ. Do đó khi tổ chức các hoạt động cho họ chúng ta cần phải tạo điều kiện để họ có
thể giao tiếp với nhau một cách tích cực, sáng tạo nhất, vì giao tiếp không chỉ là điều
kiện tồn tại của mỗi cá nhân, của xã hội mà còn là phương tiện để mỗi người tiến hành
hoạt động với những người khác, còn là phương tiện để mỗi người tự hoàn thiện mình.
2.5. Quy luật về sự phát triển không đồng đều
Sự phát triển không đồng đều được hiểu là những chức năng tâm lí, những biểu
hiện tâm lí khác nhau không phát triển ở mức độ giống nhau trong điều kiện giáo dục
bất kì (thậm chí trong điều kiện thuận lợi nhất).
Sự phát triển không đồng đều trong tâm lí thể hiện như sau:
a. Xét trong tiến trình phát triển của mỗingười
Trong tiến trình phát triển, sự phát triển của mỗi người đều mang tính không
đồng đều. Biểu hiện: một chức năng tâm lí ở giai đọan này sự phát triển diễn ra với
tốc độ nhanh chóng, ngược lại ở những giai đoạn khác tốc độ phát triển diễn ra chậm
chạp hơn. VD: ngôn ngữ phát triển nhanh, mạnh ở tẻ từ 2 đến 5 tuổi, sau đó chậm
dần....
Sự phát triển không đồng đều còn thể hiện: trong một giai đoạn cụ thể có sự
phát cảm một vài chức năng tâm lí nào đó nhưng các chức năng tâm lý khác lại chưa
phát triển. VD: Sự phát cảm ngôn ngữ ở giai đoạn tuổi ấu nhi (2 đến 3 tuổi), nhưng tư
duy ở độ tuổi này lại chưa phát triển, đặc biệt là tư duy trừu tượng chỉ bắt đầu phát
triển mạnh ở tuổi học sinh.
b. Xét sự phát triển của những người trong cùng độ tuổi:
Nhìn chung quá trình phát triển của con người đều trải qua những giai đoạn phát
triển giống nhau theo một trình tự nhất định, nhưng mỗi người lại trải qua con đường
phát triển theo cách riêng của mình với những tốc độ, nhịp độ, khuynh hướng riêng.
Vì vậy cùng một độ tuổi nhưng ở mỗi người khác nhau có sự phát triển tâm lý khác
nhau. VD...
9
Trong sự phát triển của các qúa trình, các phẩm chất tâm lí thì sự khác biệt giữa
người này với người khác càng rõ rệt hơn nhiều. Chẳng hạn có những người chuyển
biến tâm lí tương đối chậm, từ từ, có những người lại chuyển biến tâm lí rõ rệt, nhảy

vọt, có liên quan đến sự xuất hiện những nét tâm lí mới.
Tính không đồng đều tạo nên sự khác biệt trong các phẩm chất tâm lí giữa
người này với người khác như: tính cách, năng lực, hứng thú, khí chất... chẳng hạn có
những người điềm đạm, có những người lại nhanh nhẹn. Hoạt bát, có những người
ham mê một lĩnh vực hoạt động nào đó, có người lại dường như không có năng lực
gì ... tất cả những cái này tạo ra những khuynh hướng phát triển khác nhau giữa người
này với người kia, tạo ra cái riêng không lặp lại của các cá nhân.
c. Nguyên nhân của sự phát triển không đồng đều.
Sở dĩ có sự phát triển không đồng đều trong tâm lý của con người là do: quá
trình phát triển tâm lí được qui định bởi những tác động của điều kiện bên trong và
điều kiện bên ngoài mà các điều kiện này thường xuyên dao động, kết quả của sự dao
động đó là tạo nên tính không đồng đều trong phát triển tâm lí của bất kì người nào.
Cụ thể:
+ Đặc điểm phát triển cơ thể ở mỗi người khác nhau có sự khác nhau nên đã ảnh
hưởng khác nhau tạo nên mức độ phát triển không đồng đều trong tâm lý của họ. VD...
+ Sự phát triển tâm lí phụ thuộc vào đặc điểm của môi trường sống và các điều
kiện giáo dục, ở mỗi giai đoạn phát triển của từng người, hay của mỗi người khác
nhau có môi trường sống, điều kiện giáo dục khác nhau thì sẽ tạo ra những đặc điểm
tâm lý khác nhau. VD ...
+ Sự phát triển tâm lí còn phụ thuộc vào mức độ tích cực của mỗi người khi
tham gia vào hoạt động thực tiễn và nội dung, tính chất của hoạt động cũng quy định
nội dung, tính chất của sự phát triển tâm lý. Mỗi người tham gia vào hoạt động với
những động cơ, kĩ năng khác nhau, chính vì lẽ đó mà kết quả hoạt động của họ khác
nhau và dẫn tới mức độ sâu sắc, phong phú của quá trình phát triển tâm lí cũng khác
nhau. VD ...
Tóm lại, quy luật phát triển không đồng đều giúp chúng ta tránh được sự rập
khuôn, máy móc, áp đặt trẻ và giúp chúng ta biết tôn trọng cá tính riêng của mỗi
người.
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ LỨA TUỔI THANH NIÊN – SINH VIÊN
1. Quan niệm về tuổi thanh niên – sinh viên

10
Trước hết chúng ta tìm hiểu xem tuổi thanh niên là gì. Các nhà TLH trên thế giới
đều có chung một quan niệm cho rằng tuổi thanh niên là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ
em đến người lớn và bao gồm một khoảng đời từ 15 tuổi đến 24, 25 tuổi. Giai đoạn
này có thể chia thành 2 thời kỳ: Thời kỳ đầu từ 15 đến 17,18 tuổi; hời kỳ sau: Từ
17,18 đến 24,25 tuổi. Như vậy, sinh viên đại học là những thanh niên ở thời kỳ sau.
Sau đây là một số đặc điểm cơ bản của nhóm tuổi này:
1.1. Về mặt sinh lý: Hình thể đạt được sự hoàn chỉnh về cấu trúc và sự phối hợp
giữa các chức năng. đầu thời kỳ này, con người đạt được 9/10 chiều cao và 3/4 trọng
lượng của cơ thể trưởng thành. Não bộ đạt được trọng lượng tối đa (trung bình = 1400
gram), số tế bào thần kinh đã phát triển đầy đủ trên 14 - 16 tỷ nơron. Quan trọng hơn,
ở tuổi này hoạt động của hệ thần kinh cao cấp đã đạt tới mức trưởng thành. Một tế bào
thần kinh có thể nhận tin từ 1200 nơron trước và gửi đi 1200 nơron sau, bảo đảm một
sự liên lạc vô cùng rộng, chi tiết và tinh tế giữa vô số kênh vào và vô số kênh ra làm
cho trí tuệ của sinh viên vượt xa trí tuệ của học sinh. Ước tính có tới 2/3 số kiến thức
học được trong một đời người được tích lũy trong thời gian này (Theo Lê Quang
Long, “Một số cơ sở sinh học của việc học tập ở đại học và chuyên nghiệp”). Đặc biệt
quan trọng ở thời kỳ này là “Tuổi dậy thì”, trong đó các chức năng sinh sản bắt đầu
quá trình phát triển đầy đủ, giới tính đã phân biệt rõ, và phát triển đầy đủ ở mỗi giới,
cả về biểu hiện ngoại hình và biểu hiện nội tiết tố.
1.2. Về mặt tâm lý:
Trước hết ta đề cập đến sự phát triển trí tuệ ở tuổi chuyển tiếp. Trong thời kỳ này
sự phát triển trí tuệ được đặc trưng bởi sự nâng cao năng lực trí tuệ, biểu hiện rõ rệt
nhất trong việc tư duy sâu sắc và mở rộng, có năng lực giải quyết những nhiệm vụ trí
tuệ ngày một khó khăn hơn, cũng như có tiến bộ rõ rệt trong lập luận lôgic, trong việc
lĩnh hội tri thức, trí tưởng tượng, sự chú ý và ghi nhớ. Ở tuổi này đã phát triển khả
năng hình thành ý tưởng trừu tượng, khả năng phán đoán, nhu cầu hiểu biết và học tập.
Một trong những đặc trưng cơ bản của sự phát triển trí tuệ ở thời kỳ chuyển tiếp là
“Tính nhạy bén cao độ”, khả năng giải thích và gán ý nghĩa cho những ấn tượng cảm
tính nhờ vào kinh nghiệm và tri thức đã có trước đây. Những sự phát triển nói trên

cùng với óc quan sát tích cực và nghiêm túc sẽ tạo khả năng cho lứa tuổi này biết cách
lĩnh hội một cách tối ưu, mà đó chính là cơ sở của toàn bộ quá trình học tập.
Sự phát triển tình cảm của thời kỳ chuyển tiếp được đặc trưng bởi “Thời kỳ bão táp
và căng thẳng” hoặc thời kỳ vô tư chẳng có gì phải bận tâm. Đây cũng là thời kỳ đầy
xúc cảm đối với mỗi cá nhân, nó chất chứa những cảm xúc và đam mê của những mối
tình chưa kịp chín hoặc mối tình đầu. Vì nỗi nhiều tình huống mới nảy sinh đòi hỏi
phải có những phán đoán và quyết định chín chắn – những tình huống này đầy rẫy
11
trong thời kỳ chuyển tiếp – mà mỗi cá nhân ở lứa tuổi này thường thiếu kinh nghiệm
và hiểu biết xã hội, cho nên dễ phát sinh những tình cảm không thích hợp khi phải ứng
xử với những tình huống đó. Vì thế, con người ta ở lứa tuổi này thường dễ bị lúng
túng, do đó quá nhạy cảm trước một lời phê bình, sự nhận xét nặng lời hoặc biểu hiện
thiếu tôn trọng ... Khi lâm vào tình thế đó dễ xuất hiện những phản ứng như: Thiếu tự
tin, miễn cưỡng thực hiện công việc, từ chối tham gia vào công việc chung, hay ở một
cực khác, rơi vào tình trạng mơ mộng hão huyền khi được khen thái quá. Trong một số
trường hợp xuất hiện những hành vi quá hung hăng, hay ngược lại, hoàn toàn thờ ơ.
Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của thanh niên – sinh viên là sự phát
triển tự ý thức.
1.3. Về mặt xã hội:
Thời kỳ này, quan hệ xã hội của sinh viên được mở rộng đáng kể, điều này đã
hình thành ở lứa tuổi này những hứng thú và thái độ mới, quan tâm nhiều hơn đến việc
phát triển những kỹ năng mới, tác phong đĩnh đạc để đối diện với môi trường xã hội
ngày càng mở rộng. Ảnh hưởng của các nhóm bạn bè có ý nghĩa quan trọng.
Khi xét đến mặt xã hội của thời kỳ chuyển tiếp, chúng ta phải quan tâm đến kế
hoạch đường đời và việc tự xác định nghề nghiệp của thanh niên – sinh viên. Kế hoạch
đường đời là một hiện tượng đồng thời của thể chế xã hội và pháp quyền, kế hoạch
đường đời cũng chính là kế hoạch hoạt động và nó được khởi đầu bằng sự lựa chọn
nghề nghiệp. Sự lựa chọn nghề nghiệp còn có tính đạo đức, như C.Mác và Ăng Ghen
đã từng dạy: “Chúng ta lựa chọn nghề nghiệp phải vì quyền lợi của nhân loại và vì sự
hoàn thiện của riêng ta .... bản chất con người được hình thành sao cho vừa có thể đạt

được sự hoàn thiện bản thân vừa làm việc để hoàn thiện những bạn bè của mình và vì
lợi ích của họ”.(Suy nghĩ của thanh niên khi chọn nghề, Mác–Ăng Ghen 1956, tr 4-5).
Sinh viên có độ tuổi từ 17 đến 23, là giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về thể lực
sang trưởng thành về phương diện xã hội. Nghiên cứu của Annanhev cho thấy rằng
lứa tuổi sinh viên là thời kỳ phát triển tích cực nhất về tình cảm đạo đức và thẩm mỹ,
là giai đoạn hình thành và ổn định tính cách, đặc biệt họ có vai trò xã hội của người
lớn (quyền công dân, quyền xây dựng gia đình ....), người sinh viên có kế hoạch riêng
cho hoạt động của mình, độc lập trong phán đoán và hành vi. Đây là thời kỳ có nhiều
biến đổi mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội. Họ xác định con đường sống
tương lai, tích cực nắm vững nghề nghiệp và bắt đầu thể nghiệm mình trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống.
2. Quá trình nhận thức và các hoạt động cơ bản của sinh viên
2.1. Quá trình nhận thức
12
Nhận thức là quá trình con người phản ánh thế giới khách quan, kết quả mang lại
cho họ những hiểu biết về thế giới.Trong nhận thức thế giới, con người có thể đạt tới
những mức độ nhận thức khác nhau: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Mức độ thấp được gọi là nhận thức cảm tính, bao gồm hai quá trình: cảm giác và
tri giác. Trong nhận thức cảm tính, con người phản ánh những cái bên ngoài của sự vật
hiện tượng, khi chúng đang trực tiếp tác động đến giác quan của họ, kết quả mang đến
cho họ những hình ảnh trực quan, cụ thể về sự vật hiện tượng đó.
Mức độ cao hơn là nhận thức lý tính, bao gồm hai quá trình: tư duy và tưởng
tượng. Trong nhận thức lý tính con người phản ánh những cái bản chất bên trong,
những mối liên hệ, quan hệ có tính qui luật của các sự vật, hiện tượng, kết quả mang
đến cho con người những khái niệm mới, những phán đoán, suy luận mới hay những
hình ảnh, biểu tượng mới về thế giới khách quan.
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ
sung cho nhau và chi phối lẫn nhau.
2.1.1. Nhận thức cảm tính và các qui luật của nó.
2.1.1.1. Khái niệm cảm giác và tri giác.

a. Định nghĩa cảm giác
Mỗi một sự vật, hiện tượng quanh ta đều được bộc lộ bởi hàng loạt những thuộc
tính bề ngoài (màu sắc, kích thước, trọng lượng, khối lượng, tính chất, mùi vị, âm
thanh, ...). Tất cả những thuộc tính này của sự vật, hiện tượng liên hệ với bộ óc con
người, tác động đến từng giác quan của chúng ta và cho ta những cảm giác cụ thể.
Chẳng hạn ta đặt vào lòng bàn tay một người đang nhắm mắt một vật nào đó và yêu
cầu họ không được nắm bàn tay lại, thì người đó không thể biết được đó là vật gì mà
chỉ biết được có vật đặt trên tay, vật đó nặng hay nhẹ, nóng hay lạnh mà thôi – Tức là
người đó chỉ nhận biệt được từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng đó. Hiện
tượng con người chỉ biết được từng thuộc tính riêng rẽ, bề ngoài của sự vật, hiện
tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan ta gọi là quá trình cảm giác.
Vậy, Cảm giác là một quá trình tâm lý phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự
vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan của ta.
b. Định nghĩa tri giác.
Từ những hình ảnh cụ thể, riêng lẻ mà cảm giác đưa lại và trên cơ sở những
kinh nghiệm mà con người có những hình ảnh trọn vẹn về đối tượng – Có nghĩa là con
người có tri giác về đối tượng. Chẳng hạn khi ta đặt và lòng bàn tay một người đang
nhắm mắt một viên phấn và cho phép họ nắm bàn tay lại, rồi sờ, nắn, bóp … thì người
đó có thể biết và gọi được tên “viên phấn”– Tức là họ biết được sự vật, hiện tượng với
13
một tổng thể các thuộc tính của nó. Hiện tượng con người biết được trọn vẹn những
thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tác động vào giác quan
được gọi là tri giác.
Vậy, tri giác là một quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính
của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động vào giác quan ta.
2.1.1.2. Đặc điểm của cảm giác, tri giác.
a. Đặc điểm của cảm giác.
Cảm giác có những đặc điểm cơ bản sau đây:
+ Cảm giác là một quá trình tâm lý, nghĩa là nó tồn tại trong một thời gian ngắn,
có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách rõ ràng.

+ Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ, cụ thể của sự vật, hiện tượng
thông qua hoạt động của từng giác quan riêng lẻ.
+ Cảm giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp bằng các giác
quan
+ Sản phẩm của cảm giác là hình ảnh trực quan, cụ thể về sự vật, hiện tượng
trong hiện thực khách quan.
+ Tuy là một hiện tượng tâm lý sơ đẳng, có chung cả ở người và động vật,
nhưng cũng như các hiện tượng tâm lý khác, cảm giác ở con người có bản chất xã hội
và phụ thuộc vào hoạt động của con người. Bản chất xã hội của cảm giác ở người biểu
hiện:
- Đối tượng phản ánh của cảm giác ở người không chỉ là những thuộc tính của
sự vật, hiện tượng vốn có trong thế giới mà còn phản ánh những sự vật, hiện tượng do
con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động và giao tiếp. Ví dụ: con người cảm
giác được cả những hiện tượng tinh thần (thái độ) trong quá trình giao tiếp hay hiện
tượng “nhà sạch thì mát, bát sạch thì ngon cơm”…
- Cơ chế sinh lí của cảm giác ở con người không chỉ phụ thuộc vào hoạt động
của hệ thống tín hiệu thứ nhất, mà còn bị chi phối bởi hệ thống tín hiệu thứ 2 - Hệ
thống tín hiệu ngôn ngữ.
+ Cảm giác ở người chỉ là mức độ định hướng đầu tiên, sơ đẳng nhất, chứ
không phải là mức độ cao nhất, duy nhất như ở một số loài động vật. Cảm giác ở
người bị chi phối bởi nhiều hiện tượng tâm lý cấp cao khác như tư duy, tưởng tượng…
+ Cảm giác của người được phát triển mạnh mẽ và phong phú dưới ảnh hưởng
của hoạt động và giáo dục.
b. Đặc điểm của tri giác.
Tri giác được hình thành và phát triển trên cơ sở những cảm giác, nhưng tri giác
không phải là phép cộng đơn giản của các cảm giác, mà là sự phản ánh cao hơn so với
14
cảm giác. Do vậy tri giác có những đặc điểm giống với cảm giác, nhưng cũng có
những đặc điểm khác với cảm giác.
+ Những đặc điểm giống với cảm giác là:

- Tri giác cũng là một quá trình tâm lý nên nó cũng tồn tại trong một thời gian
ngắn, có mở đầu, diễn biến và kết thúc một cách rõ ràng.
- Tri giác cũng phản ánh những thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng.
- Tri giác cũng phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp khi chúng
đang trực tiếp tác động vào giác quan.
- Tri giác của con người cũng có bản chất xã hội và cũng khác xa về chất so với
tri giác của con vật.
- Sản phẩm của quá trình tri giác cũng chỉ là những hình ảnh trực quan, cụ thể
về sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
+ Ngoài ra tri giác có những đặc điểm nổi bật khác với cảm giác, những đặc
điểm này chứng tỏ tri giác thuộc mức độ nhận thức cao hơn cảm giác, đó là:
- Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn. Tính trọn vẹn của tri
giác là do tính trọn vẹn của sự vật, hiện tượng quy định. Kinh nghiệm có ý nghĩa rất
lớn đối với tính trọn vẹn này, cho nên chỉ cần tri giác một số thành phần của sự vật,
hiện tượng ta cũng có thể tổng hợp chúng thành một hình ảnh trọn vẹn về sự vật, hiện
tượng đó.
- Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng theo những cấu trúc nhất định. Cấu trúc
này không phải tổng số các cảm giác mà là sự khái quát đã được trừu xuất từ các cảm
giác trong mối quan hệ qua lại giữa các thành phần của cấu trúc ấy ở một khoảng thời
gian nào đó.
- Tri giác là quá trình tích cực, được gắn liền với hoạt động của con người. Biểu
hiện: Tri giác mang tính tự giác, nhằm giải quyết một nhiệm vụ nhận thức cụ thể nào
đó, để giải quyết nhiệm vụ đó con người phải hành động một cách tích cực và phối
kết hợp các yếu tố của cảm giác, vận động và các chức năng tâm lý khác.
Tóm lại, tri giác là mức độ phản ánh cao hơn của nhận thức cảm tính, nhưng chỉ
mới phản ánh những thuộc tính bề ngoài, cá lẻ của sự vật vật hiện tượng đang trực tiếp
tác động vào giác quan .
c. Đặc điểm chung của nhận thức cảm tính.
Từ sự phân tích những đặc điểm giống và khác nhau giữa cảm giác và tri giác,
chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm chung của nhận thức cảm tính là:

- Nội dung phản ánh của nhận thức cảm tính là những thuộc tính bề ngoài của
sự vật, hiện tượng
15
- Phương thức phản ánh của nhận thức cảm tính là phản ánh trực tiếp bằng các
giác quan.
- Sản phẩm của nhận thức cảm tính là những hình ảnh cụ thể, trực quan về thế
giới.
2.1.1.3. Các qui luật cơ bản của cảm giác, tri giác
a. Các qui luật của cảm giác.
a1. Qui luật ngưỡng cảm giác:
Muốn có cảm giác thì phải có kích thích tác động vào các giác quan và kích
thích đó phải đạt tới một giới hạn nhất định, nếu kích thích quá nhỏ hoặc quá lớn sẽ
không thể gây ra được cảm giác. Giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác gọi
là ngưỡng cảm giác.
- Cảm giác có 2 ngưỡng: Ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng cảm giác phía
trên.
+ Ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ kích thích tối thiểu đủ để gây ra cảm
giác. Khả năng cảm nhận được kích thích này gọi là độ nhạy cảm của cảm giác.
+ Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ kích thích tối đa mà ở đó vẫn còn gây
được cảm giác.
+ Phạm vi giữa ngưỡng dưới và ngưỡng trên gọi là vùng cảm giác được. Trong
đó có một vùng phản ánh tốt nhất.
Chẳng hạn: Vùng phản ánh của cảm giác nghe là sóng âm thanh từ 16 héc đến 2
vạn héc, thì ngưỡng cảm giác phía dưới là 16 hec, ngưỡng cảm giác phía trên là 2 vạn
hec, trong đó vùng phản ánh tốt nhất là 1000 héc.
- Ngưỡng sai biệt: Cảm giác còn phản ánh sự khác nhau giữa các kích thích,
nhưng kích thích phải có tỷ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay tính chất thì ta mới
cảm thấy có sự khác nhau giữa 2 kích thích. Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ
hay tính chất của 2 kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa chúng gọi là ngưỡng
sai biệt. Ngưỡng sai biệt của mỗi cảm giác là một hằng số.

VD: Cảm giác thị giác là 1/100, của cảm giác thính giác là 1/10.
Ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng sai biệt tỉ lệ nghịch với độ nhạy cảm của
cảm giác và độ nhạy cảm sai biệt: Ngưỡng cảm giác phía dưới càng thấp thì độ nhạy
cảm của cảm giác càng cao, ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt càng
cao. Những ngưỡng này khác nhau ở mỗi loại cảm giác và ở mỗi người khác nhau.
* Kết luận sư phạm: Để phát triển cảm giác cần phải tăng cường rèn luyện độ
nhạy cảm. Muốn vậy phải rèn luyện thông qua các hoạt động để hạ thấp ngưỡng phía
dưới và ngưỡng sai biệt làm cho vùng cảm giác được mở rộng, tăng độ nhạy cảm của
16
cảm giác. Trong dạy học: Lời nói, đồ dùng trực quan phải phù hợp. Môi trường giáo
dục phải phù hợp về ánh sáng, nhiệt độ thì người học mới tiếp thu bài tốt.
a2. Quy luật thích ứng của cảm giác.
Để phản ánh tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm giác của con người có khả
năng thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm
giác cho phù hợp với sự thay đổi của cường độ kích thích. Sự thích ứng diễn ra theo
quy luật sau: Khi cường độ kích thích tăng thì độ nhạy cảm giảm, Khi cường độ kích
thích giảm thì độ nhạy cảm tăng.
Quy luật thích ứng có ở tất cả các loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng khác
nhau. Có loại cảm giác thích ứng nhanh như cảm giác nhìn, cảm giác ngửi, nhưng có
loại cảm giác chậm thích ứng như cảm giác nghe, cảm giác đau.
Khả năng thích ứng của cảm giác có thể thay đổi và phát triển do rèn luyện và
tính chất nghề nghiệp.
* Kết luận sư phạm: Muốn thay đổi kích thích tác động đến học sinh phải diễn
ra dần dần để các em có khả năng thích ứng. Rèn luyện thể chất cho học sinh, giúp các
em có khả năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường.
a3. Quy luật về sự tác động qua lại giữa các cảm giác.
Các cảm giác của con người không tồn tại một cách biệt lập, tách rời mà luôn
tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự tác động này, các cảm giác luôn thay đổi độ nhạy
cảm của nhau và diễn ra theo quy luật sau: Sự kích thích yếu lên một cơ quan phân tích
này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia. Sự kích thích mạnh lên

một cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia.
Sự tác động lẫn nhau giữa các cảm giác có thể diễn ra đồng thời hay nối tiếp trên
những cảm giác cùng loại hay khác loại. Sự thay đổi của một kích thích cùng loại xảy
ra trước đó hay đồng thời gọi là sự tương phản trong cảm giác.
Có hai loại tương phản: Tương phản nối tiếp và tương phản đồng thời. Ví dụ:
Sau một kích thích lạnh thì một kích thích ấm ta thấy có vẻ nóng hơn - Đó là tương
phản nối tiếp. Một nét phấn viết trên bảng đen ta thấy trắng hơn so với trên bảng
không đen.
* KLSP: Trong dạy học sự tương phản được sử dụng để so sánh, đối chiếu để
làm nổi bật một sự vật, hiện tượng nào đó cần giới thiệu cho học sinh trong bài giảng.
b. Các quy luật của tri giác.
b1. Quy luật về tính đối tượng của tri giác.
Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện
tượng của thế giới khách quan bên ngoài. Hình ảnh ấy một mặt phản ánh đặc điểm của
17
đối tượng mà ta tri giác, mặt khác nó là hình ảnh chủ quan của chủ thể về thế giới
khách quan. Nghĩa là con người khi tạo ra hình ảnh tri giác phải sử dụng một tổ hợp
các hoạt động của các cơ quan phân tích, đồng thời chủ thể đem sự hiểu biết của mình
về sự vật hiện tượng đang tri giác để “tách” các đặc điểm của sự vật đưa chúng vào
hình ảnh của sự vật hiện tượng. Nhờ tính đối tượng mà hình ảnh tri giác là cơ sở định
hướng và điều chỉnh hành vi.
b2. Quy luật về tính ý nghĩa của tri giác.
Khi tri giác, chúng ta không chỉ tạo ra được hình ảnh trọn vẹn về sự vật, hiện
tượng mà còn có thể chỉ ra được ý nghĩa của sự vật, hiện tượng đó.Tức là chủ thể tri
giác có thể gọi tên, phân loại, biết được công dụng của sự vật, hiện tượng và khái quát
nó trong một từ xác định. Ngay cả khi tri giác một sự vật hiện tượng không quen biết
ta vẫn cố gắng ghi nhận trong đó một cái gì giống với các đối tượng mà ta đã quen biết
hoặc xếp nó vào một loại sự vật hiện tượng đã biết, gần gũi nhất đối với nó.
Trong quá trình tổ chức hoạt động học tập cho học sinh, giáo viên cần phải tính
đến quy luật này. Tài liệu trực quan chỉ được quan sát một cách đầy đủ, sâu sắc khi

giới thiệu kèm theo những lời chỉ dẫn. Việc gọi tên đầy đủ, chính xác sự vật hiện
tượng mới mẻ khi tổ chức cho học sinh quan sát là rất cần thiết.
b3. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác.
Có vụ vàn sự vật hiện tượng tác động vào con người. Tri giác của ta không thể
đồng thời phản ánh tất cả các sự vật hiện tượng đang trực tiếp tác động mà chỉ tách
một số tác động trong vụ vàn những tác động đó để tri giác một đối tượng nào đó. Đặc
điểm này nói lên tính lựa chọn của tri giác – Tức là khi tri giác một đối tượng nào đó
thực chất là tách ra, lựa chọn các thuộc tính của sự vật, hiện tượng đó ra khỏi thuộc
tính của sự vật, hiện tượng khác, rồi kết hợp thành một chỉnh thể trọn vẹn. Như vậy
qui luật về tính lựa chọn của tri giác là khả năng tách đối tượng tri giác ra khỏi bối
cảch để phản ánh chúng được tốt hơn. Tính lựa chọn phụ thuộc vào chủ quan của
người tri giác, kinh nghiệm của con người càng phong phú, đa dạng, con người càng
hứng thú với đối tượng tri giác bao nhiêu thì họ càng nhanh chóng, càng dễ dàng tách
được đối tượng tri giác ra khỏi bối cảnh. Đồng thời, những sự vật (hay thuộc tính của
sự vật) nào càng được phân biệt với bối cảnh thì càng được tri giác dễ dàng, đầy đủ
hơn. Ngược lại đối tượng và bối cảnh càng giống nhau thì khó tri giác chính xác và
nhanh chóng được.
Qui luật này có ứng dụng rộng rãi trong thực tế như trong kiến trúc, trang trí,
nguỵ trang và dạy học, chẳng hạn trong dạy học chú ý việc trình bày chữ viết trên
bảng, thay đổi màu mực khi chấm bài hay gạch dưới những chữ có ý quan trọng, làm
sao cho đối tượng tri giác càng khác bịêt rõ nét với bối cảnh thì quá trình tri giác ở trẻ
18
em càng diễn ra nhanh chóng và chính xác hơn, chú ý sử dụng ngôn ngữ mạch lạc, rõ
ràng để kích thích sự lựa chọn đối tượng tri giác diễn ra nhanh chóng, vì ngôn ngữ có
tác dụng rất lớn đối với sự lựa chọn đối tượng tri giác, v.v...
b4. Quy luật tính ổn định của tri giác.
Điều kiện tri giác một sự vật, hiện tượng nào đó chúng ta có thể thay đổi (vị trí
trong không gian, khoảng cách, độ chiếu sáng…) song chúng ta vẫn tri giác được sự
vật, hiện tượng đó như là sự vật, hiện tượng ổn định về hình dạng kích thước, màu
sắc…Hiện tượng này nói lên tính ổn định của tri giác. Tính ổn định của tri giác là khả

năng phản ánh sự vật, hiện tượng không thay đổi khi điều kiện tri giác thay đổi.
- Tính ổn định của tri giác phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Do bản thân sự vật, hiện
tượng có cấu trúc tương đối ổn định trong một thời gian, thời điểm nhất định, nhưng
chủ yếu là do cơ chế tự điều chỉnh của hệ thần kinh cũng như vốn kinh nghiệm của
con người về đối tượng.
Tính ổn định của tri giác không phải là cái bẩm sinh mà nó được hình thành
trong đời sống cá thể, là điều kiện cần thiết của hoạt động thực tiễn của con người.
Tuy nhiên, khi tri giác cần khắc phục cái nhìn phiến diện, tĩnh tại về thế giới.
* Kết luận sư phạm:
Tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc rộng rãi với môi trường xung quanh để thu
thập nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống, giúp các em tri giác tài liệu tốt hơn.
b5. Quy luật tổng giác.
Ngoài tính chất, đặc điểm của vật kích thích tri giác của con người còn phụ
thuộc vào bản thân chủ thể tri giác như: nhu cầu, hứng thú, tình cảm, mục đích, động
cơ. Vhí dụ: Hiện tượng “yêu nhau củ ấu cũng tròn”. … Sự phụ thuộc của tri giác vào
nội dung đời sống tâm lý của con người, vào đặc điểm nhân cách của cá nhân khi tri
giác đối tượng gọi là hiện tượng tổng giác.
Như vậy chứng tỏ rằng ta có thể điều khiển được tri giác. Do đó trong dạy học
hay trong tổ chức hoạt động nghề nghiệp phải tính đến hiểu biết, xu hướng, hứng thú,
tình cảm,... của chủ thể hoạt động, đồng thời cung cấp tri thức, kinh nghiệm, giáo dục
niềm tin, nhu cầu, hứng thú, động cơ,... cho họ làm cho quá trình tri giác của họ tinh
tế, chính xác, nhạy bén hơn.
b6. Ảo giác.
Trong một số trường hợp, với những điều kiện thực tế xác định, tri giác có thể
không cho ta hình ảnh đúng về sự vật. Hiện tượng này gọi là ảo ảnh thị giác, gọi tắt là
ảo giác. ảo giác là sự tri giác không đúng, bị sai lệch. Hiện tượng này không nhiều
19
nhưng mang tính chất qui luật. Thí dụ như hình tròn như nhau về kích thước nhưng
nếu ở giữa những vòng tròn khác to hơn thì tri giác dường như bé hơn vòng tròn ở
giữa những vòng tròn nhỏ hơn nó hay chiều cao hai người như nhau, nhưng một người

mập thì tri giác như họ thấp hơn so với người gầy.
Ứng dụng của qui luật này vào trong công việc kiến trúc, hội hoạ, trang phục,...
để phục vụ cuộc sống của con người. Trong dạy học cũng cần giải thích cho học sinh
biết cách sử dụng trang phục cho đẹp và phù hợp với bản thân họ. Cố gắng hạn chế tới
mức thấp nhất hiện tượng ảo ảnh của học sinh trong học tập như chuẩn bị các hình vẽ,
vật mẫu, mô hình thật cẩn thận.
Tóm lại, cảm giác và tri giác có nhiều qui luật quan trọng, mỗi qui luật có ứng
dụng nhất định trong các hoạt động của con người. Do vậy trong dạy học và giáo dục
chúng ta cần vận dụng các qui luật cơ bản của cảm giác và tri giác một cách tích cực
để nâng cao hiệu quả dạy học và giáo dục.
2.1.1.4. Vai trò và phân loại cảm giác và tri giác.
a. Vai trò của cảm giác, tri giác
* Vai trò của cảm giác.
Cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của con người và là nguồn cung cấp
nguyên liệu để con người tiến hành những quá trình nhận thức cao hơn. Cảm giác còn
là điều kiện quan trong để đảm bảo trạng thái hoạt động của não, do đó đảm bảo cho
hoạt động thần kinh bình thường của con người. Cảm giác là con đường nhận thức
hiện thực khách quan đặc biệt quan trọng đối với những người khuyết tật. Thí dụ
những người câm, mù, điếc thì xúc giác là con đường nhận thức rất quan trọng đối với
những người khuyết tật này.
*. Vai trò của tri giác.
Tri giác là thành phần chính của nhận thức cảm tính nhất là ở người trưởng
thành. Nó là điều kiện quan trọng cho sự định hướng hành vi và hoạt động của con
người trong môi trường xung quanh. Hình ảnh tri giác thực hiện chức năng của vật
điều chỉnh hành vi và hoạt động của con người trong thế giới khách quan. Đặc biệt vai
trò của năng lực quan sát trong lao động sản xuất, nó là bộ phận cấu thành nên các
thao tác lao động và giữ vai trò xác lập sự phù hợp cuả các sản phẩm lao động với
hình ảnh lý tưởng của nó đã được hoạch định trong đầu của con người.
Nhận thức cảm tính có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thiết lập mối quan
hệ tâm lý của cơ thể với môi trường, định hướng và điều chỉnh hoạt động của con

người trong môi trường đó và là điều kiện để làm nên hoạt động nhận thức và đời sống
tâm lý của con người.
b. Các loại cảm giác,tri giác
20
* Các loại cảm giác:
- Những cảm giác bên ngoài. Bao gồm: Cảm giác nhìn (thị giác), cảm giác nghe
(thính giác), cảm giác ngửi (khứu giác), cảm giác nếm (vị giác), cảm giác da (mạc
giác)
- Những cảm, giác bên trong. Bao gồm: Cảm giác vận động, cảm giác thăng
bằng, cảm giác rung, cảm giác cơ thể.
* Các loại tri giác:
Có nhiều cách phân loại tri giác.
- Căn cứ vào vị trí vai trò chính của các giác quan tham gia vào quá trình tri
giác, ta có tri giác nhìn, tri giác nghe, tri giác sờ mó,... giống như tên các loại cảm
giác.
- Căn cứ vào đối tượng được phản ánh trong quá trình tri giác ta có: Tri giác
không gian, tri giác thời gian, tri giác vận động và tri giác con người.
2.1.1.5. Quan sát và năng lực quan sát
a. Quan sát là gì?
Quan sát là một hình thức tri giác cao nhất, là loại tri giác có chủ định, diễn ra
tương đối độc lập và lâu dài, nhằm phản ánh đầy đủ, rõ rệt các sự vật hiện tượng và
những biến đổi của chúng. Quan sát là quá trình tri giác mang tính tích cực, chủ động
và có mục đích rõ rệt. Thí dụ xem xét cấu tạo ngoài của con gà để biết được gồm
những bộ phận nào. Quá trình quan sát trong hoạt động đặc biệt trong rèn luyện đã
hình thành năng lực quan sát.
b. Năng lực quan sát:
Là khả năng tri giác có chủ định, diễn ra tương đối dộc lập và lâu dài, nhằm
phản ánh nhanh chóng, đầy đủ, rõ rệt và chính xác những điểm quan trọng, chủ yếu,
đặc sắc của sự vật, hiện tượng và những biến đổi của chúng. Năng lực quan sát ở mỗi
người khác nhau là khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc điểm nhân cách và biểu hiện ở sự

thay đổi linh hoạt các kiểu tri giác như: Kiểu tri giác tổng hợp, kiểu tri giác phân tích,
kiểu phân tích tổng hợp, kiểu cảm xúc (chú ý tâm trạng xúc cảm do đối tượng gây ra).
Xuất phát từ những hiểu biết về quan sát và năng lực quan sát, giáo viên cần
hình thành ở học sinh kỹ năng phản ánh hiện thực một cách khách quan nhất. Dạy trẻ
các thao tác của tư duy như phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, so sánh ... tổ chức tốt
quá trình quan sát theo các yêu cầu sau:
- Xác định rõ ràng mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ quan sát.
- Chuẩn bị chu đáo về tri thức, phương tiện trước khi quan sát.
21
- Tiến hành quan sát có kế hoạch, có hệ thống.
- Khi quan sát cần tích cực sử dụng các phương tiện ngôn ngữ.
- Đối với trẻ nhỏ thì tạo điều kiện để trẻ sử dụng nhiều các giác quan trong quá
trình quan sát.
- Cần ghi lại các kết quả quan sát, xử lý kết quả và rút ra nhận xét.
Trong dạy học và giáo dục, người thầy giáo cần chú ý đến những điểm khác biệt
trên đây, để hình thành cho mỗi học sinh năng lực quan sát tốt nhất.
2.1.2. Nhận thức lý tính.
Thực tế cuộc sống luôn đặt ra những vấn đề mà bằng nhận thức cảm tính, con
người không thể nhận thức và giải quyết được. muốn nhận biết và giải quyết được
những vấn đề phức tạp đó, con người phải đạt tới một mức độ nhận thức cao hơn -
nhận thức lý tính, bao gồm tư duy, tưởng tượng.
2.1.2.1. Tư duy.
a. Khái niệm chung về tư duy.
a1. Định nghĩa: Trong thực tiễn cuộc sống có rất nhiều cái mà ta chưa biết,
chưa hiểu. Song, để làm chủ được thực tiễn, con người cần hiểu thấu đáo những cái
chưa biết đó, phải vạch ra cái bản chất, mối quan hệ, liên hệ có tính qui luật của
chúng. Quá trình đó gọi là tư duy. VD: 1 người lạ xuất hiện nhờ nhận thức cảm tính ta
có hình ảnh trọn vẹn về bề ngoài của người đó từ nét mặt, trang phục đến điệu bộ, cử
chỉ, cách nói năng...Trên cơ sở những đặc điểm bề ngoài này mà ta suy luận nhận xét
được anh ta là người như thế nào. Sự suy luận đó chính là quá trình tư duy.

Vậy, tư duy là một quá trình tâm lý phản ánh những thuộc tính bản chất, những
mối liên hệ và quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan mà trước đó ta chưa biết.
a2. Đặc điểm của tư duy.
Thuộc bậc thang nhận thức cao - nhận thức lý tính, tư duy có những đặc điểm
mới, khác về chất so với cảm giác và tri giác, như sau:
* Tính có vấn đề của tư duy.
Không phải bất cứ tác động nào của hoàn cảnh đều gây ra tư duy. Trên thực tế
tư duy chỉ nảy sinh khi gặp những hoàn cảnh, những tình huống có vấn đề – Tức là
những tình huống chứa đựng một vấn đề mới, một cách thức giải quyết mới mà bằng
vốn hiểu biết cũ, bằng phương pháp hành động cũ, tuy vẫn còn cần thiết song không đủ
sức giải quyết vấn đề đó. Muốn giải quyết nó con người phải tìm cách thức mới, phải
vượt ra khỏi phạm vi những hiểu biết cũ và tìm ra cái mới, có nghĩa là con người phải
tư duy. Những hoàn cảnh chứa đựng những mâu thuẫn như thế gọi là hoàn cảnh có vấn
22
đề (tình huống có vấn đề. Vấn đề chỉ trở thành tình huống có vấn đề khi con người
nhận thức được những mâu thuẫn chứa đựng trong vấn đề đó, chủ thể (con người) phải
có nhu cầu giải quyết nó và phải có những tri thức cần thiết có liên quan tới vấn đề.
Như vậy tư duy chỉ nảy sinh khi đồng thời thoả mãn hai điều kiện:
- Con người phải gặp hoàn cảnh có vấn đề
- Hoàn cảnh có vấn đề phải được cá nhân nhận thức, được chuyển thành nhiệm
vụ và cá nhân phải có những tri thức cần thiết liên quan đủ để giải quyết vấn đề đó.
Trong dạy học và giáo dục, người thầy giáo, nhà giáo dục luôn tìm cách tạo ra
tình huống có vấn đề, tạo ra những mâu thuẫn giữa cái đã có với cái chưa có trong
nhận thức của học sinh, nhưng những mâu thuẫn đó phải đảm bảo điều kiện là kích
thích được tư duy của học sinh hay của trẻ em theo từng lứa tuổi tuỳ từng khả năng
của từng em. Đồng thời tìm cách lôi cuốn các em vào việc tìm cách giải quyết vấn đề
như sử dụng phương pháp dạy học "Nêu vấn đề" để kích thích tích cực nhận thức của
học sinh.
* Tính gián tiếp của tư duy:

Tính gián tiếp của tư duy thể hiện ở những điểm:
- Quá trình tư duy đi sâu vào đối tượng, phản ánh những cái mà nhận thức cảm
tính không trực tiếp phản ánh được.
- Tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ bên trong của
sự vật, hiện tượng nhờ sử dụng ngôn ngữ để tư duy. Con người luôn dùng ngôn ngữ để
gìn giữ, lưu giữ các kết quả của tư duy như các khái niệm, quy tắc, định nghĩa,... Nhờ
phương tiện ngôn ngữ và khả năng phản ánh khái quát, phản ánh gián tiếp thế giới mà
con người sử dụng các kết quả nhận thức (qui tắc, công thức, qui luật, khái niệm,...) để
phát hiện ra các thuộc tính bản chất, các mối quan hệ có tính qui luật của sự vật, hiện
tượng, dự đoán được chiều hướng phát triển và diễn biến của chúng để nhận thức và
cải tạo chúng
- Trong quá trình tư duy con người sử dụng công cụ, phương tiện khoa học kỹ
thuật (đồng hồ, nhiệt kế, máy móc...) để nhận thức đối tượng mà không thể trực tiếp
tri giác chúng.
Nhờ có tính gián tiếp mà tư duy của con người đã mở rộng không giới hạn
những khả năng nhận thức của mình, con người không chỉ phản ánh những gì diễn ra
trong hiện tại mà còn phản ánh được cả quá khứ và tương lai.
* Tính trừu tượng và khái quát của tư duy.
- Tính trừu tượng: Tư duy có khả năng trừu xuất khỏi sự vật, hiện tượng những
thuộc tính, những dấu hiệu cá biệt, cụ thể chỉ giữ lại những thuộc tính bản chất, chung
cho nhiều sư vật hiện tượng
23
VD: Khi phân loại học sinh theo học lực, giáo viên đã gạt bỏ ở các em tất cả
những đặc điểm riêng về hình dáng, hoàn cảnh gia đình, hứng thú, sở thích... chỉ giữ
lại một thuộc tính bản chất nhất, đó là điểm học tập của em đó.
- Tính khái quát của tư duy: Tư duy phản ánh cái bản chất nhất, chung cho nhiều
sự vật hiện tượng hợp thành một nhóm, một loại, một phạm trù. Chẳng hạn khi nói tới
"cái bảng" thì ta nghĩ đến cái bảng chung, không phải là một cái bảng cụ thể nào.
Nhờ tính trừu tượng và khái quát của tư duy mà con người không chỉ giải quyết
được những nhiệm vụ trong hiện tại mà còn giải quyết được những nhiệm vụ trong

tương lai của xã hội.
* Tư duy liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ:
Sở dĩ tư duy có các đặc điểm: gián tiếp, khái quát, trừu tượng..vì tư duy gắn liền
với ngôn ngữ, ngôn ngữ là phương tiện của tư duy. Tư duy có quan hệ mật thiết chặt
chẽ với ngôn ngữ, chúng thống nhất nhưng không đồng nhất, cũng không tách rời
nhau. Tư duy không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ và ngược lại, ngôn ngữ cũng
không thể có được nếu không dựa vào tư duy. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy là
mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
- Nếu không có ngôn ngữ thì quá trình tư duy không diễn ra được và các sản
phẩm của tư duy sẽ không được chủ thể và người khác tiếp nhận, lĩnh hội.
- Nếu không có tư duy thì ngôn ngữ chỉ là chuỗi âm thanh vô nghĩa, rời rạc mà
thôi. Do vậy trong công tác, trong học tập, nghiên cứu và rèn luyện, chúng ta phải đặc
biệt chú ý trau dồi khả năng ngôn ngữ của bản thân.
* Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính:
Tư duy và nhận thức cảm tính thuộc hai mức độ nhận thức khác nhau, nhưng
không tách rời nhau, trái lại chúng có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn
nhau trong hoạt động nhận thức thống nhất biện chứng với nhau. Mối quan hệ giữa tư
duy và nhận thức cảm tính được thể hiện:
- Tư duy thường bắt đầu từ nhận thức cảm tính, trên cơ sở nhận thức cảm tính
làm nảy sinh hoàn cảnh có vấn đề. Tư duy cần thiết phải sử dụng tài liệu của nhận
thức cảm tính. Quá trình nhận thức cảm tính là một mắt xích của tư duy.
- Quá trình tư duy và những sản phẩm của nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến khả
năng phản ánh của cảm giác, tri giác, làm cho năng lực cảm giác của con người tinh vi
hơn, nhạy bén hơn, làm cho tri giác của con người mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa.
Tư duy làm cho nhận thức cảm tính diễn ra nhanh, đầy đủ và chính xác hơn.
Tóm lại, từ những đặc điểm trên đây của tư duy, ta có thể rút ra những kết luận
cần thiết trong công tác giảng dạy và giáo dục của người giáo viên như sau:
24
- Phải coi trọng việc phát triển tư duy cho học sinh nói riêng và con người – Tức
là phải tiến hành song song việc phát triển tư duy với việc truyền thụ tri thức và lĩnh

hội nền văn hoá xã hội. Mọi tri thức đều mang tính khái quát, nếu không tư duy thì
không thể thực sự tiếp thu và không thể vận dụng những tri thức đó.
- Muốn kích thích các em tư duy thì phải đưa các em vào tình huống có vấn đề
và tổ chức cho các em giải quyết vấn đề một cách độc lập, sáng tạo.
- Việc phát triển tư duy phải gắn liền với việc trau dồi ngôn ngữ. Bởi lẽ không
nắm được ngôn ngữ thì học sinh không thể tư duy tốt được. Phát triển tư duy gắn liền
với việc rèn luyện quá trình nhận thức cảm tính – Tức là tiến hành rèn luyện năng lực
cảm giác, tri giác, năng lực quan sát để có những tài liệu cần thiết cho tư duy. Thiếu
tài liệu cảm tính thì không có gì để tư duy.
b. Các giai đoạn của quá trình tư duy
Quá trình tư duy bao gồm nhiều giai đoạn, từ khi cá nhân gặp phải tình huống
có vấn đề và nhận thức được vấn đề, cho đến khi vấn đề được giải quyết, có thể chia
thành các giai đoạn sau:
- Xác định và biểu đạt vấn đề:
Tình huống là một điều kiện quan trọng của tư duy, song bản thân nó không
làm nảy sinh tư duy. Tư duy chỉ nảy sinh khi con người nhận thức được tình huống,
lúc đó, “tình huống” trở thành “có vấn đề ”, tức là con người xác định được nhiệm vụ
tư duy và biểu đạt được nó.
Tình huống có vấn đề chứa đựng các mâu thuẫn khác nhau (giữa cái đã biết với
cái chưa biết, giữa cái đã có với cái chưa có …), đó là mặt khách quan của tình huống
có vấn đề. Tuy nhiên, tình huống có vấn đề mang tính chủ quan rõ rệt. Cùng một hoàn
cảnh (tình huống) như nhau, ở người này có thể nảy sinh vấn đề khi họ nhìn thấy mâu
thuẫn nào đó, nhưng ở người khác vấn đề lại không được nảy sinh. Điều này phụ
thuộc vào kiến thức và nhu cầu của cá nhân. Con người càng có nhiều kinh nghiệm
trong một lĩnh vực nào đó, càng dễ dàng nhìn một cách đầy đủ mâu thuẫn, tức là càng
xác định những rõ vấn đề đòi hỏi họ giải quyết. Có thể nói, tình huống có vấn đề là sự
sát nhập giữa yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Chính vấn đề cần giải quyết được
xác định này quyết định toàn bộ các khâu sau đó của quá trình tư duy, quyết định
chiến lược tư duy. Đây là giai đoạn đầu tiên, rất quan trọng của quá trình tư duy.
- Huy động tri thức, kinh nghiệm.

Khi đã xác định được nhiệm vụ cần giải quyết chủ thể tư duy huy động các tri
thức, kinh nghiệm liên quan đến vấn đề cần giải quyết đó, nghĩa là làm xuất hiện các
liên tưởng. Việc làm xuất hiện các tri thức, kinh nghiêm có liên quan phụ thuộc vào
25

×