Câu 1. Trình bày nội dung, vai trò của cơ chế quản lý kinh tế. Những giải
pháp hoàn thiện cơ chế quản lý ?
Bài làm
Cơ chế quản lý kinh tế có vai trò rất quan trọng đến sự phát triển và thịnh
vượng chung của mọi quốc gia, dân tộc. Cơ chế quản lý kinh tế đúng đắn,
phù hợp sẽ tạo động lực xã hội và trở thành công cụ phát triển kinh tế phục
vụ đắc lực cho việc tạo ra của cải và mang lại sự giàu có chung cho toàn xã
hội. Ngược lại, cơ chế quản lý kinh tế lạc hậu, đi ngược lại các quy luật
khách quan sẽ làm kìm hãm, trì trệ sự phát triển kinh tế - xã hội, dẫn đến
những hậu quả mà khắc phục nó phải là tốn một thời gian rất dài không chỉ
một vài năm mà phải là hàng mấy chục năm. Vậy nội dung, vai trò của cơ
chế quản lý kinh tế là gì ? Cơ chế quản lý kinh tế mà Việt Nam đang áp dụng
là gì ? Những giải pháp nào để hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta
nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra cho sự phát triển đất nước ? Bằng
những kiến thức về quản lý kinh tế, chúng ta hãy phân tích làm rõ vấn đề
trên
Cơ cấu kinh tế của hệ thống kinh tế quốc dân luôn ở trạng thái động và
phải bảo đảm nội dung biến động thỏa mãn những nhu cầu không ngừng
tăng lên của xã hội. Sự biến đổi, chuyển dịch của cơ cấu kinh tế vận hành
theo những quy luật vận động khách quan : đó chính là cơ chế kinh tế. Nhận
thức cơ chế kinh tế khách quan để từ đó xây dựng cơ chế điều khiển nhằm
đảm bảo quá trình vận động, biến đổi cơ cấu kinh tế theo đúng yêu cầu, quy
luật khách quan là công việc hệ thống quản lý phải giải quyết và đây cũng
chính là nội dung xây dựng cơ chế quản lý kinh tế. Như vậy, cơ chế quản lý
kinh tế được hiểu như là hệ thống các yếu tố, phương pháp, cách thức, công
cụ mà chủ thể quản lý sử dụng để vận hành, tác động, điều khiển quá trình
vận động của hệ thống kinh tế nhằm thực hiện các mục tiêu quản lý, mục
tiêu phát triển đã hoạch định. Cơ chế quản lý kinh tế là sản phẩm sáng tạo
của chủ thể quản lý, vì vậy nó mang tính chủ quan của chủ thể quản lý
nhưng đồng thời nội dung của nó cũng phải dựa trên cơ sở nhận thức, phản
ánh những nội dung khách quan của cơ chế kinh tế. Sự phù hợp hay không
phù hợp của cơ chế quản lý với cơ chế kinh tế hoặc sẽ tạo động lực hoặc sẽ
tạo áp lực cản trở chính quá trình vận động, phát triển cơ cấu kinh tế của hệ
thống kinh tế quốc dân.
Về mặt cấu trúc, cơ chế quản lý kinh tế bao gồm 2 thành phần cơ bản :
một là hệ thống các mục tiêu để định hướng nội dung vận động của hệ
thống kinh tế trong từng thời kỳ và hai là hệ thống các yếu tố, phương pháp,
công cụ quản lý kinh tế được chủ thể quản lý sử dụng để vận hành, điều
khiển hoạt động của hệ thống kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều sử dụng cơ chế quản lý kinh tế là
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Riêng ở Việt Nam, trong suốt
thời kỳ quá độ đi lên CNXH, Đảng ta đã xác định rõ phải phát triển nền kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nói rõ hơn, đó chính là nền kinh tế mà phương
thức vận hành của nó tuân theo các quy luật kinh tế khách quan của nền
kinh tế thị trường, các quy luật của thời kỳ quá độ đồng thời có sự quản lý
của Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn phù hợp với
xu hướng phát triển khách quan của thời đại bởi vì sử dụng cơ chế thị
trường để quản lý nền kinh tế không phải là thuộc tính của CNTB mà nó
được xem như là một thành quả của văn minh nhân loại đồng thời trong thời
kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế,
nhìều hình thức sở hữu, đây là những điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của
nền kinh tế thị trường .
Về nội dung, nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp giữa nhân tố khách quan và chủ quan
trong quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về nhân tố khách quan, cơ chế thị trường được sử dụng như “bàn tay vô
hình” để điều tiết hoạt động của nền kinh tế theo các quy luật khách quan :
quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả, quy
luật lợi nhuận… Nội dung của cơ chế “Bàn tay vô hình” gồm ba yếu tố : một
là quan hệ cung - cầu là cơ chế điều tiết mối quan hệ giữa các chủ thể tham
gia hoạt động của nền kinh tế; hai là giá cả và lợi nhuận đóng vai trò đóng
vai trò phân phối các nguồn lực (giá cả) và tạo động lực cho các chủ thể (lợi
nhuận); ba là cạnh tranh là cơ chế phát triển của doanh nghiệp và của hệ
thống kinh tế quốc dân đó. Chính cơ chế thị trường tạo nên tính năng động,
tính trách nhiệm và tính hiệu quả trong quá trình vận động của nền kinh tế.
Tuy nhiên, phải thấy rằng cơ chế thị trường như con dao 2 lưỡi, bên cạnh
những mặt tích cực, nó còn có những mặt tiêu cực như : luôn chứa đựng
những yếu tố tự phát, dễ làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng
do tính tất yếu của các chu kỳ kinh tế, tình trạng độc quyền do cạnh tranh thị
trường tạo ra sẽ dần dần hạn chế các nguồn lực, hàng hóa công cộng không
được thị trường quan tâm, thông tin trên thị trường bất cân xứng, mội trường
sinh thái bị phá hủy, sự phân hóa giữa các tầng lớp xã hội ngày càng rõ đe
doạ đến tính ổn định của đất nước …
Vì vậy, để sử dụng rộng rãi cơ chế thị trường phát huy mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực của nó thì cần phải có sự can thiệp của Nhà nước
thông qua chính sách, cơ chế quản lý nhằm xác lập trạng thái ổn định của cơ
chế thị trường trong quá trình tác động của cơ chế. Nếu cơ chế thị trường là
cơ chế vận hành khách quan của nền thị trường thì hoạt động quản lý của
nhà nước mang dấu ấn chủ quan của chủ thể quản lý nhà nước Nhà nước
1-1
1-2
thực hiện chức năng quản lý thông qua công cụ định hướng như Luật pháp,
quy hoạch, kế hoạch, chương trình, mục tiêu, các công cụ điều tiết, đòn bẩy
kinh tế như chính sách (giá, thuế, tài chính, lãi suất, tín dụng, thương mại )
và các công cụ giám sát như : thanh tra, kiểm tra Nhà nước quản lý nền
kinh tế thị trường không phải bằng sự duy ý chí của mình mà phải bằng nhận
thức, tôn trọng và tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, những
quyết định của nhà nước phải tương hợp với điều kiện kinh tế thị trường
Đối với nền kinh tế thị trường Việt Nam theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, ngoài việc dựa trên nguyên tắc và quy luật của thị trường, nền kinh tế
còn dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản
chất của CNXH thể hiện trên cả 3 mặt : sở hữu, quản lý và phân phối. Mục
đích của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản
xuất, xây dựng cơ sở vật chất CNXH và nâng cao đời sống vật chất của
người dân. Về sở hữu, nền kinh tế phải dựa trên cơ sở công hữu những tư
liệu sản xuất chủ yếu song song với đa dạng hóa các hình thức sở hữu, kinh
tế nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng của nền kinh tế. Về chế độ quản
lý, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực hiện việc quản lý nhằm kết
hợp giữa tính cân đối kế hoạch và tính năng động, nhạy cảm của thị trường.
Về phân phối, sử dụng nhiều hình thức nhưng phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế phải là hình thức phân phối chủ yếu. việc phân
phối thông qua các quỹ phúc lợi XH và tập thể có ý nghĩa quan trọng và gắn
liền mỗi bước tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống… Về chính sách xã
hội, chúng ta chủ trương làm giàu nhưng đó là làm giàu hợp pháp, cùng với
làm giàu phải xóa đói giảm nghèo, hạn chế sự phân cực quá đáng giàu
nghèo trong nền kinh tế thị trường, phải chăm lo tiến bộ và công bằng XH
ngay trong quá trình phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường XHCN cũng là
nền kinh tế mở hội nhập nhưng vẫn giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ
lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại
Chủ thể vận hành trong cơ chế quản lý gồm thị trường, nhà nước và
doanh nghiệp. Thị trường: có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế
lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh,
biểu hiện trực tiếp qua những ảnh hưởng từ nội dung tác động của các quan
hệ cung- cầu, giá cả, phân phối lợi nhuận, cạnh tranh thị trường. Nhà nước
thực hiện nội dung quản lý vĩ mô (điều tiết, điều chỉnh các quan hệ thị
trường) nhằm phát huy mặt tích cực đi đôi với việc ngăn ngừa, hạn chế và
khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường nhằm định hướng quá
trình vận động của nền kinh tế quốc dân theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa và
đảm bảo các quan hệ cân đối cần thiết cho nội dung phát triển ổn định của
nền kinh tế (như quan hệ cân đối hàng - tiền, quan hệ cân đối xuất - nhập
khẩu, quan hệ cân đối thu - chi ngân sách, quan hệ cân đối sản xuất - tiêu
dùng…). Doanh nghiệp: xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản
xuất, kinh doanh nhằm đảm bảo khả năng tiếp cận, khả năng hoạt động theo
nội dung điều tiết của cơ chế thị trường và theo nội dung định hướng của
Nhà nước.
Trong thời gian qua, việc thực hiện cơ chế quản lý kinh tế bằng thị trường
có sự quản lý nhà nước theo định hướng XHCN đã đạt được một số thành
tựu nhất định nhưng cơ chế quản lý kinh tế của ta nhìn chung vẫn còn sơ
khai, vẫn còn chịu ảnh hưởng ít nhiều của nền kinh tế kế hoạch tập trung,
thất thoát, lãnh phí còn nhiều và phát triển chưa đúng đắn. Để đổi mới và
hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của nước ta hiện nay, cần tập trung vào
những giải pháp sau đây :
Một là thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các
loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển mạnh thị trường
hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng
hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng
khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ. Thị
trường ở nước ta hiện nay đang được phát triển ở giai đoạn đầu, sơ khai, do
đó việc phát triển một thị trường đầy đủ, đồng bộ và lành mạnh không chỉ là
một nội dung quan trọng trong chiến lược chuyển đổi cơ cấu kinh tế mà còn
là tiền đề quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế. Để
thực hiện điều đó, trước hết nhà nước cần tạo môi trường thể chế phát triển
đồng bộ các loại thị trường, trước hết là môi trường pháp lý để giải phóng
những yếu tố sản xuất cơ bản : đất đai, lao động, vốn . Hai là phải phát
triển các tổ chức hỗ trợ thị trường từ tòa án, các cơ quan thông tin đại
chúng, cách dịch vụ khoa học - công nghệ, kế toán, kiểm toán, thiết kế,
nghiên cứu thị trường, sử dụng số liệu, thông tin, quảng cáo và duy trì bảo
dưỡng, các tổ chức xúc tiến mậu dịch và các dịch vụ về đào tạo. Ba là tôn
trọng các loại cạnh tranh thị trường, tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình
đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển, kiên trì phá
bỏ chia cắt, phong toả và độc quyền theo ngành và địa phương, thúc đẩy và
bảo hộ cạnh tranh công bằng, coi cải cách giá cả là vấn đề then chốt để thị
trường trưởng thành
Hai là nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước
bằng việc thực hiện đồng bộ các giải pháp như sau :
- Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng sự phát triển kinh tế,
kiểm kê và kiểm soát mọi hoạt động kinh tế XH bằng việc đổi mới công tác
kế hoạch hóa, tăng cường thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế;
ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học- công nghệ trong dự bátrong,
nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo phù hợp và định hướng được nền
kinh tế thị trường đang trong bước sơ khai và nhiều biến động. Tăng cường
1-3
1-4
1-4
việc kiểm tra, kiểm soát thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định
của pháp luật.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng đổi mới việc
xây dựng, thay dần quy trình xây dựng pháp luật theo kiểu từ trên xuống
bằng quy trình từ dưới lên, các sáng kiến pháp luật, ban hành, thực thi pháp
luật, bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, phải tạo điều kiện cho mọi loại hình
kinh tế bình đẳng trước pháp luật và phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế
trên cơ sở vừa đảm bảo yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa
cân nhắc những đặc điểm riêng biệt của nước ta, nhất là những đặc thù của
nền kinh tế Việt Nam, bảo hộ sản xuất trong nước . Bên cạnh đó, phải tăng
cường pháp chế để nâng cao hiệu quả của công cụ pháp luật
- Tiếp tục cải cách hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng
quản lý vĩ mô và chức năng chủ sở hữu tài sản công cộng của quốc gia,
không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch
toán của doanh nghiệp. Kiện toàn và làm trong sạch bộ máy quản lý nhà
nước về kinh tế. Các cơ quan quản lý (bao gồm các cấp chính quyền và các
cơ quan quản lý chuyên ngành) cần phải sắp xếp, chấn chỉnh lại tổ chức bộ
máy theo hướng giảm bớt các đầu mối, các khâu trung gian, tập trung vào
chức năng quản lý kinh tế vĩ mô, giảm dần đi tới xóa bỏ chế độ chủ quản đối
với doanh nghiệp, đảm bảo bộ máy tinh gọn, phân định rõ chức năng, trách
nhiệm và quyền hạn, đủ khả năng quản lý và xử lý tốt các vấn đề nảy sinh
trong nền kinh tế thị trường. Việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy Nhà nước về
kinh tế phải gắn liền với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước
có phẩm chất, trình độ và năng lực trong quản lý nền kinh tế thị trường và
thực hiện cải cách thủ tục hành chính cả về quy chế và tổ chức thực hiện,
giảm đến mức tối đa các thủ tục, quy chế và phong cách quan liêu, phiền hà
đối với nhân dân và các doanh nghiệp.
- Xây dựng và hoàn chỉnh các chính sách kinh tế và xã hội một cách
đồng bộ và nhất quán : về chính sách tài chính - tiền tệ, phải tiếp tục cải
cách hệ thống thuế phù hợp với tình hình đất nước và các cam kết quốc tế;
đơn giản hóa các sắc thuế và từng bước áp dụng hệ thống thuế thống nhất,
không phân biệt đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; xóa bỏ sự can
thiệp hành chính của các cơ quan Nhà nước đối với các hoạt động cho vay
của các ngân hàng thương mại Nhà nước, thực hiện chính sách tỷ giá linh
hoạt theo cung cầu ngoại tệ, từng bước thực hiện tự do hóa tỷ giá hối đoái
có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, bảo đảm tính minh bạch, công bằng
trong chi ngân sách Nhà nước, thực hiện phân cấp mạnh đi đôi với tăng
cường trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc thu và chi ngân
sách địa phương. Về chính sách đầu tư : phải nâng cao hiệu quả các
chương trình quốc gia, bảo đảm tính hợp lý trong cơ cấu đầu tư tránh dàn
trãi vốn mà tập trung vốn cho các chương trình trọng điểm, trực tiếp đầu tư
vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là cơ cấu hạ tầng để tạo ra môi trường ổn
định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt, chuyển cơ chế phân
bổ nguồn vốn vay Nhà nước mang tính hành chính sang cho vay theo cơ
chế thị trường, thường xuyên quan tâm xử lý tốt vốn đầu tư, tránh thất thoát
vốn, tăng cường quản lý nợ chính phủ; hoàn thiện cơ chế quản lý nợ nước
ngoài cho phù hợp với tình hình mới. Về chính sách thương mại, phải tiếp
tục hoàn thiện và thực thi thể chế thương mại và từng bước thực hiện chính
sách tự do hóa thương mại, các thành phần kinh tế được tự do kinh doanh,
được nhà nước bảo vệ nhưng phải hoạt động thương mại đúng pháp luật;
mở rộng giao lưu hàng hóa, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tiêu thụ hàng
nông sản; mở rộng ngành nghề.
- Tích cực đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đặc
quyền, đặc lợi và coi đây là nhiệm vụ quan trọng sống còn, nó phải được
thực hiện bằng nhiều biện pháp cả tố chức hành chính, kinh tế và tâm lý giáo
dục, nhưng trước hết phải từ việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh
tế phải kiên quyết loại trừ các phần tử thoái hoá biến chất khỏi bộ máy quản
lý nhà nước
Ba là nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm tăng trưởng kinh
tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội như : thực hiện thuế thu nhập cá
nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp, thực hiện các chương trình xóa đói
giảm nghèo, nhất là tín dụng cho người nghèo và các chính sách xã hội khác
Tóm lại, việc sử dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa để quản lý nền kinh tế là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng và nhà nước ta, vừa phù hợp với xu hướng phát triển khách quan
của thời đại, vừa là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của đất nước và
những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của chủ nghĩa xã hội
kiểu cũ. Bước đầu, việc vận hành cơ chế kinh tế hàng hóa thị trường trong
thời kỳ quá độ lên CNXH đã đạt được một số thành tựu nhất định và điều đó
giúp chúng ta khẳng định hơn về sự chọn lựa này đồng thời cũng đặt ra
những yêu cầu mà chúng ta còn phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện hơn
cơ chế quản lý kinh tế để thúc đẩy hơn nữa sự tăng trưởng, phát triển và
thịnh vượng chung của đất nước.
1-5
1-6
1-6