Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Luận văn - Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.87 KB, 38 trang )

Tiểu luận
Giải pháp để nâng cao khả năng
cạnh tranh của ngành cà phê
Việt Nam
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu
Nội dung chính.
I. Thực chất và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
I.1. Khái niệm về cạnh tranh.
I.2. Khái niệm khả năng cạnh tranh.
I.3. Phân loại khả năng cạnh tranh.
3.1. Cạnh tranh quốc gia.
3.2. Cạnh tranh ngành.
3.3. Cạnh tranh sản phẩm.
I.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
4.1. Các nhân tố chủ quan.
4.1.1. Nhân tố con người.
4.1.2. Khả năng về tài chính.
4.1.3. Trình độ công nghệ.
4.2. Các nhân tố khách quan.
4.2.1. Các nhân tố kinh tế.
4.2.2. Các nhân tố về chính trị pháp luật.
II. Thực trạng về thị trường cà phê thế giới và ngành cà phê Việt Nam
II.1. Tổng quan về thị trường cà phê thế giới.
II.2. Thực trạng ngành cà phê Việt Nam.
2.1. Về sản xuất.
2.2. Về công nghệ.
2.3. Về nguyên liệu.
2.4. Về lao động.
II.3. Những lợi thế và bất lợi của ngành cà phê Việt Nam


2
3.1. Lợi thế của ngành cà phê Việt Nam.
3.1.1. Lợi thế khách quan.
3.1.2. Lợi thế chủ quan.
3.2. Những hạn chế của ngành cà phê Việt Namvà nguyên nhân.
3.2.1. Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao.
3.2.2. Cơ cấu cây trồng thiếu hợp lý.
3.2.3. Chất lượng cà phê chưa cao.
3.2.4. Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu.
3.2.5. Thiếu vốn.
3.2.6. Chưa trú trọng đến thị trường nội địa.
III. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cà phê Việt
Nam
III.1. Phương hướng.
III.2. Giải pháp.
2.1. Tạo nguồn vốn đầu tư.
2.2. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
2.3. Nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cà phê.
2.4. Đổi mới công nghệ.
2.5. Xây dựng hệ thống đồng bộ giữa các khâu.
2.6. Tổ chức hệ thống thu thập thông tin.
2.7. Quan tâm hơn đến thị trường nội địa.
2.8. Mở rộng thị trường cà phê và tăng cường hợp tác quốc tế.
Kết luận
3
LỜI MỞ ĐẦU
Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn
và quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, tạo ra được khối lượng
nông sản không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu
cao mang về hàng tỉ đô la. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc

độ cao và ổn định, hình thành những vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá
với quy mô lớn. Sự phát triển nhanh của ngành nông nghiệp đã nâng cao vị
thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế, góp phần đẩy nhanh tiến độ công
nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. Là một trong những mặt hàng nông sản
chủ lực, cà phê Việt Nam có tốc độ phát triển rất cao, hàng năm thu về hàng
trăm triệu đô la từ việc xuất khẩu, mang lại nguồn thu nhập ổn định, thường
xuyên cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Tuy
nhiên, bên cạnh những thế mạnh của mình, ngành cà phê vẫn tồn tại những
hạn chế ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Do đó, làm sao phát huy hết
nội lực, hết lợi thế để cà phê Việt Nam có thể đứng vững và phát triển trên
thị trường thế giới vẫn là một câu hỏi bất cập cần có lời giải đáp.
Đề tài “Giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cà
phê Việt Nam “ mà em chọn là một đóng góp nhỏ ý kiến của bản thân mong
góp phần giải quyết câu hỏi đó.
Tuy đây là lần đầu tiên tiếp cận với cách thức viết đề án môn chuyên
ngành, nhưng dưới sự hướng dẫn tận tình của Ths Nguyễn Đình Trung, em
đã hoàn thành đề án này. Em xin chân thành cảm ơn thầy!
Sinh viên thực hiện
Tạ Thị Bình Minh
4
I. Thực chất và các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh.
I.1 Khái niệm về cạnh tranh
Cạnh tranh là một trong
những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, là năng lực phát triển của
kinh tế thị trường. Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua nhau giữa các
nhà doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng
nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được một mục tiêu
kinh doanh cụ thể.
Quan điểm đầy đủ về cạnh tranh có thể được nhìn nhận như sau:” cạnh

tranh là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa các nhà sản xuất, kinh doanh
với nhau dựa trên chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất nhằm đạt
được những điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất, đồng thời tạo điều
kiện thúc đẩy sản xuất phát triển.”
I.2. Khái niệm khả năng cạnh tranh.
Hiện nay, một doanh nghiệp muốn có vị trí vững chắc trên thị trường
và thị trường ngày càng được mở rộng thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh
để có thể cạnh tranh trên thị trường. Cái đó chính là khả năng cạnh tranh của
một doanh nghiệp. Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp chính là việc
có được các lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp đối thủ. Cạnh tranh
để duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo
thực hiện mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện mục
tiêu của doanh nghiệp.
I.3 .Phân loại cạnh tranh
3.1. Cạnh tranh quốc gia.
5
Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một
nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn
định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân.
3.2. Cạnh tranh ngành.
Xét theo phạm vi ngành kinh tế, cạnh tranh được chia làm hai loại :
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành : là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất kinh doanh một loại dịch vụ. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là một
cuộc cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất cả đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là
lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải cải tiến kỹ
thuật, năng lực quản lý nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản
phẩm để tìm lợi nhuận siêu ngạch.
- Cạnh tranh giữa các ngành : là cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm
mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu

hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi
nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình
quân.
3.3. Cạnh tranh sản phẩm.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường của các doanh
nghiệp, vấn đề sản phẩm bán tới tay khách hàng được coi trọng hàng đầu.
Bởi sản phẩm là đại diện cho thương hiệu của doanh nghiệp, cho sự lớn
mạnh hoặc yếu kém trong lĩnh vực cung cấp mặt hàng cùng công cụ sử
dụng. Cạnh tranh về sản phẩm thường được thể hiện qua các mặt:
Cạnh tranh về trình độ sản phẩm: tuỳ theo những sản phẩm khác nhau để
chúng ta lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau có tính chất quyết định
trình độ của sản phẩm. Doanh nghiệp sẽ chiến thắng trong cạnh tranh nếu
như lựa chọn trình độ sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng.
6
Cạnh tranh về chất lượng: Tùy theo từng sản phẩm với đặc điểm khác nhau
để lựa chọn chỉ tiêu phản ánh chất lượng khác nhau. Nếu tạo ra nhiều lợi thế
cho chỉ tiêu này thì sản phẩm càng có nhiều cơ hội giành thắng lợi cạnh
tranh trên thị trường.
Cạnh tranh về bao bì: Cùng với việc thiết kế bao bì cho phù hợp, doanh
nghiệp còn phải lựa chọn cơ cấu sản phẩm phù hợp, lựa chọn cơ cấu hàng
hóa và cơ cấu chủng loại hợp lý.
Cạnh tranh về nhãn mác, uy tín sản phẩm. Doanh nghiệp sử dụng công cụ
này để đánh trực tiếp vào trực giác của người tiêu dùng.
Cạnh tranh do khai thác hợp lý chu kỳ sống của sản phẩm. Sử dụng biện
pháp này, doanh nghiệp cần phải có những quyết định sáng suốt để đưa ra
một sản phẩm mới hoặc dừng việc cung cấp một sản phẩm đã lỗi thời.
I.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh.
4.1. Các nhân tố chủ quan.
4.1.1 Nhân tố con người
Con người ở đây phản ánh đến đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động

tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các yếu tố
như trình độ lao động, năng suất lao động, thái độ phục vụ khách hàng, sự
sáng tạo trong sản xuất Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng
cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất ra sản phẩm hàng hóa.
4.1.2. Khả năng về tài chính .
Bất cứ một hoạt động đầu tư, sản xuất phân phối nào cũng đều phải
xét, tính toán đến tiềm lực, khả năng tài chính của doanh nghiệp. Một doanh
nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới
công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, bảo đảm nâng cao chất lượng sản
phẩm, hạ giá thành, duy trì và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, khuyến
7
khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị thế
của mình trên thương trường.
4.1.3. Trình độ công nghệ.
Tình trạng trình độ công nghệ máy móc thiết bị có ảnh hưởng một
cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp. Đó là
yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một
doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến chất lượng, năng suất sản xuất. Ngoài
ra, công nghệ sản xuất cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán của sản
phẩm. Một doanh nghiệp có công nghệ phù hợp sẽ có một lợi thế cạnh tranh
rất lớn do chi phí sản xuất thấp, chất lượng sản phẩm và dịch vụ cao. Ngược
lại doanh nghiệp sẽ có bất lợi cạnh tranh khi họ chỉ có công nghệ lạc hậu.
4.2. Nhân tố chủ quan.
4.2.1. Các nhân tố kinh tế.
Trong môi trường kinh doanh, các nhân tố kinh tế luôn có những ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung cũng
như sức cạnh tranh của sản phẩm doang nghiệp nói riêng. Các nhân tố kinh
tế bao gồm: tốc độ phát triển kinh tế, lãi suất trên thị trường vốn
Tốc độ phát triển kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập của người dân tăng lên.
Thu nhập tăng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của họ khi

nhu cầu về hàng hoá thiết yếu và hàng hoá cao cấp cũng tăng lên.
Lãi cho vay của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của doanh
nghiệp. Hiện nay có một phần không nhỏ vốn đầu tư của doanh nghiệp trong
ngành là đi vay. Do đó khi lãi suất tăng lên sẽ dẫn tới chi phí sản xuất sản
phẩm của doanh nghiệp tăng và ngược lại. Như vậy, doanh nghiệp nào có
lượng vốn chủ sở hữu lớn xét về mặt nào đó sẽ thuận lợi hơn trong cạnh
tranh và rõ ràng năng lực cạnh tranh về tài chính của doanh nghiệp sẽ tốt
hơn so với đối thủ cạnh tranh.
8
Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của sản
phẩm của doanh nghiệp trong các ngành. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải
đánh giá được tác động của nó để tìm ra những cơ hội cũng như thách thức.
4.2.2. Các nhân tố về chính trị pháp luật.
Các nhân tố về chính trị pháp luật là nền tảng quy định các yếu tố
khác của môi trường kinh tế. Nền kinh tế ảnh hưởng đến hệ thống chính trị
nhưng ngược lại hệ thống chính trị cũng tác động trở lại các hoạt động kinh
tế. Pháp luật và chính trị ổn định sẽ tạo ra một cơ chế chính sách trong hoạt
động sản xuất kinh doanh trong từng lĩnh vực cụ thể có được lợi thế cạnh
tranh trong xu thế toàn cầu hoá của thế giới.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một ngành, của một
doanh nghiệp thậm chí kể cả của đối thủ cạnh tranh, cần phải xem xét đầy đủ
các nhân tố tác động, từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
khả năng cạnh tranh của ngành hay của doanh nghiệp đó.
II. Thực trạng về thị trường cà phê thế giới và ngành cà
phê Việt Nam
II.1. Tổng quan về thị trường cà phê thế giới.
Nhìn lại sự phát triển thị trường tiêu thụ cà phê thế giới cho thấy sau
thế chiến II, nhu cầu dùng cà phê ở nhiều quốc gia tăng lên nhanh chóng.
Bắt đầu từ Mỹ ở thập niên 1950-1960 khi những cựu chiến binh mang sở
thích uống cà phê về truyền bá trong quân đội và dân chúng, rồi dần dần

phát triển sang Châu Âu ở những năm 1960-1970. Vào cuối thập niên 1970,
khi thị trường Mỹ và Châu Âu gần như chững lại thì những thị trường mới
lại mở ra ở vùng Viễn Đông như Nhật Bản và gần đây là thị trường Đông
Âu, Trung Quốc có dấu hiệu tăng. Cùng với sự mở rộng thị trường ở khắp
nơi, sản lượng cà phê thế giới không ngừng tăng lên, đáp ứng nhu cầu ngày
9
cao của người tiêu dùng. Sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2002-2003 đạt
122.6 triệu bao, tăng 10.7% so với mức 110.7 triệu bao của năm trước.
Brazil, nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới đạt mức sản lượng kỷ lục 46.9
triệu bao trong khi sản lượng của hai nước Côlômbia và Việt Nam, nước
đứng thứ hai và thứ ba về sản xuất cà phê đạt khoảng 10 triệu tấn. ICO (tổ
chức cà phê quốc tế) cho rằng, niên vụ 2003/04 sẽ là năm mất mùa trong kì
sản xuất cà phê thế giới bởi cây cà phê sẽ cần một thời gian để hồi phục sau
vụ mùa bội thu.
Sản lượng cà phê của những nước sản xuất chính ( đơn vị : triệu
bao )
2000/01 2001/02 2002/03
Brazil 43.1 33.7 46.9
Colômbia 10.5 11.0 10.9
Indonesia 6.5 6.0 5.8
Mêxicô 4.8 4.7 5.2
Việt Nam 15.3 12.3 10.5
Thế giới 117.0 110.7 122.6
( số liệu theo tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam*số tháng 2/2001)
Mức tiêu thụ cà phê bình quân đầu người trên phạm vi toàn cầu ít thay đổi
trong những năm qua, dao động trong khoảng 4.5-4.7 kg/người/năm.
Tổng mức tiêu thụ cà phê toàn cầu ( đơn vị : triệu bao ).
2001/02 2000/01 1999/00
Nước NK 78.6 78.1 77.1
Nước SX 27.0 26.4 25.9

Tổng 105.6 104.5 103.3
( số liệu theo tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam* số tháng 2/2002 )
Với khoảng 1/4 dân số thế giới hiện uống cà phê thường xuyên, triển
vọng tăng tiêu thụ cà phê trong những năm tới là rất khả quan. Tuy nhiên,
nếu không có hành động tích nào để đẩy mạnh, tốc độ tăng sẽ không có tiến
triển gì khá hơn những năm vừa qua. Và nếu cứ giữ mức tăng chưa đầy 5%
10
mỗi năm hiện nay, có lẽ tới vụ 2005/06 mới hy vọng tổng lượng tiêu thụ đạt
mức 1190 triệu bao.
Brazil là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới chiếm khoảng 26%
tổng lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu, chủ yếu là cà phê Arabica. Côlômbia
đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê Arabica toàn cầu, chiếm khoảng 19%, chủ
yếu là loại cà phê Arabica dịu. Đứng thứ ba về xuất khẩu cà phê Arabica là
Guatêmala, chiếm khoảng 5% tổng sản lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu.
Mỹ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 29%
tổng sản lượng cà phê nhập khẩu. Đứng thứ hai là Đức với tỷ trọng khoảng
18% tổng lượng nhập khẩu. Nhập khẩu cà phê của Nhật Bản tăng nhanh,
đưa Nhật Bản trở thành nước đứng thứ ba thế giới về nhập khẩu cà phê trong
những năm qua với tỷ trọng khoảng 9% tổng lượng cà phê nhập khẩu toàn
cầu.
Do mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân cung-cầu, giá cà phê đã
liên tục giảm trong những năm gần đây, giảm xuống tới mức kỷ lục trong
năm 2002 chỉ bằng 1/3 mức giá bình quân của thập niên 60 ( tính theo giá
thực tế ). Theo dự báo của WB( ngân hàng thế giới ), giá cả hai loại cà phê
Rôbusta và Arabica đều tăng lên trong năm 2003 và sẽ tiếp tục tăng trong
năm 2004. Tuy nhiên, giá cà phê khó có thể tăng nhanh do nguồn cung vẫn ở
trong tình trạng dư thừa. Về dài hạn, giá cà phê có thể hồi phục nhưng chắc
chắn khó có thể trở lại mức giá kỷ lục của những năm 70 hay đầu thập niên
90 của thế kỷ 20.
II.2. Thực trạng ngành cà phê Việt Nam.

2.1. Về sản xuất.
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1870, mãi đến
đầu thế kỷ 20 mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp.
11
Năm 1930 ở Việt Nam có 5900 ha. Trong thời kì những năm 1960-1970, cây
cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh miền
Bắc, khi cao nhất ( 1964-1966 ) đã đạt tới 13000 ha song không bền vững do
sâu bệnh ở cà phê Arabica và do các yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà
phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê phải thanh lý.
Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất, diện tích cà phê của các
nước có khoảng trên 13000 ha, cho sản lượng 6000 tấn. Sau 1975, cà phê ở
Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây Nguyên nhờ có vốn từ các
hiệp định hợp tác liên chính phủ với các nước : Liên Xô cũ, CHDC Đức,
Bungary, Tiệp Khắc, Ba Lan, đến năm 1990 đã có 119300 ha. Trên cơ sở
này, từ 1986, phong trào trồng cà phê phát triển mạnh trong nhân dân. Đến
nay đã có trên 390000ha, đạt sản lượng gần 700000 tấn.
Ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc. chỉ trong
vòng 15-20 năm trở lại đây chúng ta đã đưa sản lượng cà phê cả nước tăng
lên hàng trăm lần. Hiện nay, cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất sang 50
nước với khối lượng lớn đứng hàng thứ 4 trên thế giới. Mức tăng trưởng
lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khá lớn.
Sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam giai đoạn 1998-2002
sản lượng ( ngàn tấn) xuất khẩu
sản lượng % tăng sản lượng % tăng
1998 409.3 97.3 382.0 97.5
1999 509.8 124.6 482.0 126.2
2000 800.4 157.0 733.0 152.1
2001 847.0 105.5 931.0 127.0
2002 710.0 76.3
(số liệu theo tạp chí Thương nghiệp thị trường Việt Nam * số tháng 2/2002 )

Cà phê hiện đang là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn đứng
thứ hai sau gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim
12
ngạch xuất khẩu hàng năm. Ngay cả những thị trường khó tính như Mỹ,
Đức, Bỉ cũng dần bị cà phê Việt Nam chinh phục.
5 nước nhập khẩu cà phê đứng đầu niên vụ 2000/01:
STT tên nước sản lượng trị giá tỷ phần so với
tổng XK (%)
1 Bỉ 138.603 57.974.984 15.85
2 Mỹ 137.501 59.371.585 15.72
3 Đức 134.321 60.054.805 15.36
4 Tây Ban Nha 73.852 31.666.889 8.44
5 Ý 62.559 27.796.789 7.15
( số liệu theo trang web : vicofa.com )
2.2. Về công nghệ.
Sau 1975, khi đi vào phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có một
ít xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. Ở phía bắc có một số xưởng chế biến ở
Đồng Giao, Phủ Quỳ với thiết bị lắp đặt từ năm 1960-1962 do CHDC Đức
chế tạo. Ở phía nam có một số xưởng của các doanh điền cũ như Rossi,
Delphante để lại công suất không lớn. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng
cà phê, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng các xưởng chế biến mới, bắt
đầu từ những thiết bị lẻ, rồi đến các dây chuyền sản xuất sao chép theo mẫu
của Hang-xa như nhà máy 1/5 Hải Phòng, nhà máy A74 Bộ Công Nghiệp ở
Thủ Đức-TpHCM. Những năm gần đây, nhiều công ty, nông trưòng đã xây
dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ CHLB
Đức, Brazil. Một loạt hơn chục dây chuyền chế biến cà phê của hãng
Pinhalense-Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất hiện nhiều
xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo mô phỏng có
cải tiến công nghệ của Brazil. Như thế so với thời gian trước đây thì hiện tại
vấn đề công nghệ trong sản xuất và chế biến cà phê đã được quan tâm chặt

chẽ hơn.
2.3. Về nguyên liệu.
13
Về nguyên liệu, nhờ có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi và đất
đai màu mỡ, phì nhiêu nên đã tạo điều kiện cho các giống cà phê phát triển
tốt. Cả nước hiện có khoảng 390 ngàn ha cà phê phân bố trên nhiều địa bàn
từ bắc chí nam. Cây trồng được chăm sóc tốt, đảm bảo chất lượng cho sản
xuất. Vì vậy mà nguồn nguyên liệu rất dồi dào, luôn đảm bảo cung cấp đủ
sản lượng cho sản xuất, xuất khẩu và dự trữ.
2.4. Về lao động.
Nhờ tạo được công ăn việc làm và mang lại nguồn thu nhập ổn định
thường xuyên nên ngành cà phê đã thu hút hàng triệu lao động. Trong đó
chiếm một lượng lớn là dân cư các vùng nông thôn, trung du và miền núi có
điều kiện tự nhiên thuận lợi như các tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên,
Gia Lai, Đăk Lăk… và tỉnh Thanh Hoá là một ví dụ điển hình. Đến năm
2001, diện tích cà phê của tỉnh trồng được là 3996 ha với 3213 hộ gia đình
tham gia ở 46 xã cung cấp 6000 lao động. Riêng xã Thanh Xuân, huyện Như
Xuân, 100% là đồng bào dân tộc thiểu số thì có tới 270 hộ dân lao động
trong ngành. Từ đây có thể thấy rằng nguồn lao động trong ngành cà phê
Việt Nam rất phong phú và dồi dào.
Qua nhìn nhận lại thực trạng phát triển ngành cà phê Việt Nam
những năm qua cho thấy ngành đã đạt được nhiều thành tựu đáng ca ngợi.
Tuy nhiên, trong vài năm gần đây do kích thích mạnh mẽ của giá cả thị
trường cà phê đã ra khỏi kiểm soát của ngành cũng như của Nhà nước.
Chính vì thế mà sự tăng trưởng nhanh chóng với mức độ lớn đã có tác động
quan trọng trong việc góp phần đẩy ngành cà phê thế giới đến kỳ khủng
hoảng thừa. Giá cà phê thế giới liên tục giảm đến mức thấp kỷ lục 30 năm
lại đây. Ngành cà phê bước vào thời kỳ ảm đạm và có phần hoảng loạn. Đài
phát thanh và báo chí thường xuyên đưa tin nông dân chặt phá cà phê ở nơi
14

này, nơi khác Có thể nói, đây là tình hình chung của ngành cà phê toàn cầu
và nó có tác động lớn đến ngành cà phê nước ta.
II.3. Những lợi thế và bất lợi của ngành cà phê Việt
Nam.
3.1. Lợi thế của ngành cà phê Việt Nam.
Qua đánh giá tổng quan về ngành cà phê Việt Nam trên đây có thể
thấy, trong những năm gần đây, Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một
trong những nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới, chiếm lĩnh được một
thị phần đáng kể, có mặt trên 50 quốc gia, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng
sau thủy hải sản và gạo. Có được những thành tựu ấy là do ngành cà phê
Việt Nam đã có những lợi thế to lớn, giúp ngành phát triển.
3.1.1. Lợi thế khách quan.
Việt Nam có thế mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và
khí hậu thuận lợi. Đất đỏ bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân
rộng khắp lãnh thổ, trong đó tập trung nhiều ở hai vùng Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ với diện tích hàng triệu ha. Khí hậu nhiệt đới gió mùa , lượng
mưa phân bố đều các tháng trong năm , nhất là các tháng cà phê sinh trưởng.
Cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là đất và nước thì cả hai yếu tố ấy đều có ở
Việt Nam.
Hơn nữa với nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công lại rẻ và năng
xuất lao động cao đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện hạ giá
thành sản phẩm. Nhờ đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt
Nam trênthị trường quốc tế. Ngoài ra, do nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế
giới tăng nhanh nên sản phẩm cà phê cũng ngày càng được tiêu thụ mạnh.
3.1.2. Lợi thế chủ quan.
15
Với môi trường chính trị ổn định được cả thế giới công nhận, đã tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm khi làm ăn với Việt
Nam. Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi
để phát triển sản xuất và xuất khẩu cà phê. Như chính sách giao quyền sử

dụng ruộng đất, vườn cây cho người lao động đã nâng ý thức làm chủ lên
cao, nhờ đó vườn cây được chăm sóc tốt, đầu tư thâm canh tăng cao, đất đai
được sử dụng triệt để. Ngoài ra ngay từ năm 1994, thủ tướng chính phủ đã
chỉ đạo thành lập quỹ hỗ trợ hay bảo hiểm ngành cà phê. ( Văn bản số
140/TB ngày 1/11/1994 của văn phòng chính phủ). Các năm sau chính phủ
liên tiếp chỉ đạo và yêu cầu Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì
và phối hợp với Bộ Tài chính, Ban vật giá chính phủ, Bộ Thương mại xây
dựng quỹ hỗ trợ hay quỹ bảo hiểm cho ngành cà phê. Chính phủ chủ trương
“ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ ban đầu một lần khi thành lập qũy” ( Văn bản
số 589/KTTH ngày 3/2/1997 của chính phủ ). Ngoài ra còn huy động ngân
sách Nhà nước để giúp đỡ nông dân qua khỏi những giai đoạn khó khăn như
mua cà phê tạm trữ để nâng cao giá cho nông dân, miễn thuế nông nghiệp
cho đất trồng cà phê, hoãn nợ và tiếp tục cho nông dân vay tiền chăm sóc
vườn cây Bên cạnh đó, những sửa đổi các chính sách hành chính cho
nhanh và đơn giản thuận tiện, cùng với các chính sách mở cửa thu hút đầu
tư, kêu gọi đầu tư cũng góp phần phát triển ngành. Đây chính là những thế
mạnh, lợi thế của cà phê Việt Nam trên con đường cạnh tranh quốc tế.
3.2. Những hạn chế của ngành cà phê Việt Nam và nguyên nhân.
Tuy có nhiều lợi thế và thu được những thành quả đáng khích lệ
nhưng trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường hiện nay với sự cạnh
tranh ngày càng gay gắt, ngành cà phê Việt Nam đã và đang bộc lộ những
nhược điểm và hạn chế từ sản xuất đến xuất khẩu, ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh.
16
Vấn đề đặt ra lớn nhất trong xuất khẩu cà phê Việt Nam hiện nay là
tính bền vững chưa cao. Những năm gần đây, tuy sản lượng xuất khẩu nhanh
nhưng giá cả không ổn định, trong đó một số năm giảm sút lớn nên kim
ngạch xuất khẩu tăng chậm hoặc sút giảm. Vấn đề này có liên quan đến sản
xuất, chế biến và xuất khẩu, dẫn đến cung vượt cầu, công nghệ chế biến bảo
quản sau thu hoạch không đáp ứng được yêu cầu tăng sản lượng và chất

lượng, thị trường xuất khẩu chưa ổn định. Biểu hiện cụ thể là:
3.2.1. Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao.
Thật thế, thị trường quy gom cà phê Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ
vào thị trường quốc tế. Khi thị trường cà phê quốc tế sôi động làm cho hoạt
động thu mua, quy gom nhộn nhịp, việc tiêu thụ cà phê ở các hộ sản xuất
thuận lợi. Khi thị trường quốc tế thu hẹp, cà phê tụt giá, thị trường thu mua
nội địa sẽ chao đảo, ách tắc, việc tiêu thụ của các hộ sản xuất gặp nhiều khó
khăn. Giá bán ra không bù đắp đủ chi phí sản xuất, lượng hàng tồn nhiều gây
nên ứ đọng vốn.
Một dẫn chứng thực tế là niên vụ 1999-2000. Khi thị trường cà phê
thế giới giảm mạnh đã gây ra những ảnh hưởng lớn đến thị trường cà phê
trong nước. Theo báo cáo của Tổng công ty cà phê Việt Nam, trong 9 tháng
đầu năm 2000, toàn Tổng công ty đã xuất khẩu được lượng cà phê bằng
255.3% so cùng kỳ năm 1999, nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 131.6%,
chủ yếu do giá xuất khẩu cà phê (FOB) giảm mạnh và liên tục từ đầu năm
2000, tính ra giá xuất khẩu bình quân 9 tháng đầu năm 2000 chỉ bằng 51.6%
so với mức giá bình quân cùng kỳ năm 1999 ( 709.8/1376 USD/tấn ). Cụ thể
là ( FOB Việt Nam ): tháng 1/2000 đạt mức 850-900 USD/ tấn; đến tháng
3/2000 xuống còn 700-750 USD/ tấn; trong khoảng cuối quý 2/2000 giá
đứng ở mức 700-720 USD/ tấn, nhưng sang đầu quý 3 giảm xuống còn 600-
650 USD/ tấn. Có thể nói, đây là mức giá thấp nhất trong vòng 8 năm từ
17
năm 1992 cho đến năm 2000. Tình hình thực tế đó đã gây ra những khó
khăn thua thiệt to lớn cho cả người sản xuất và các nhà kinh doanh xuất
khẩu cà phê Việt Nam. Cũng theo số liệu báo cáo của Tổng công ty cà phê
Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2000, các doanh nghiệp sản xuất và kinh
doanh xuất khẩu cà phê đã phải chịu lỗ xấp xỉ 84 tỷ đồng; trong khi đó,
lượng cà phê tồn kho tính đến đầu tháng 10/2000 là xấp xỉ 30000 tấn.
Qua nhìn nhận lại niên vụ cà phê 1999-2000 trên đây có thể khẳng
định lại tính bền vững của ngành cà phê chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào

thị trường thế giới
3.2.2. Cơ cấu cây trồng thiếu hợp lý.
Cơ cấu cây trồng không hợp lí, tập trung quá nhiều vào cà phê Robusta
là loại cà phê phải cạnh tranh với những nước có bề dày kinh nghiệm và thị
trường xuất khẩu ổn định như Brazil,Achentina, Indonesia Chưa quan tâm
đến mở rộng diện tích cà phê Arabica, loại cà phê có khả năng cạnh tranh
mạnh hơn, được thị trường ưa chuộng hơn, giá lại cao và có tiềm năng phát
triển lớn. Những năm gần đây tuy có một số doanh nghiệp có quan tâm
chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng tăng diện tích cà phê Arabica, nhưng
giải pháp chưa đồng bộ nên kết quả thấp.
3.2.3. Chất lượng cà phê chưa cao.
Chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp chưa tương xứng với lợi thế về
đất đai và khí hậu Việt Nam, còn khoảng cách xa so với yêu cầu của thị
trường thế giới. Ông Daniele Giovannucci, cố vấn cao cấp của Ngân hàng
Thế giới, lấy hình ảnh Brazil, một đất nước sản xuất cà phê hàng đầu thế
giới và so sánh:“ Chất lượng ổn định là điều dễ nhận thấy nhất đối với cà
phê Brazil, trong khi đó vấn đề này đối với cà phê Việt Nam thì ngược
lại.”Cà phê loại I chiếm từ 16-18%, loại II A chiếm tới trên 70%, còn lại là
loại thấp hơn Giá cà phê Robusta II 5% của Việt Nam thấp hơn giá cà phê
18
cùng loại của Indonesia khoảng 90USD/ tấn, giá cà phê Robusta I ( trên sàng
16 ) thấp hơn giá cà phê Uganda ( trên sàng 15 ) đến 200 USD/ tấn. Các
chuyên gia về lĩnh vực này từ Bộ NN và PTNT đánh giá, tình trạng giảm sút
chất lượng cà phê xuất khẩu nước ta thời gian qua là từ nhiều yếu tố.
Ngay từ khâu chọn giống đã tồn tại nhiều bất cập. Giống cà phê ở
nước ta từ trước đến nay vẫn chủ yếu là do bà con nông dân tự chọn, ươm
giống và trồng nên không đảm bảo chất lượng. Cây phát triển kém, hạt nhỏ,
đen, tỷ lệ đồng đều giữa các hạt thấp. Đầu tư trong lĩnh vực thuỷ lợi để tưới
tiêu cho cà phê đạt thấp ( 22.4% tổng diện tích ). Nhiều vùng vào mùa khô
hạn không đủ nước tưới, ảnh hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng của

cây.Thêm nữa, cà phê nước ta vẫn thu hái theo kiểu tuốt cành là phổ biến,
quả xanh chín lẫn lộn, dẫn đến chất lượng cà phê chế biến thấp, tỷ lệ tổn thất
sau thu hoạch cũng cao ( thu hái xanh 50% có tỷ lệ tổn thất lên đến 8% ).
Ngoài ra, khâu chế biến cũng còn nhiều bất cập, góp phần ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng cà phê. Trong khâu chế biến nước ta hiện nay vẫn
sử dụng hai phương pháp, chế biến khô và chế biến ướt. Trong đó phương
pháp chế biến khô vẫn được dùng phổ biến ( khoảng 80% sản lượng ).
Phương pháp này cho hương vị cà phê không bằng phương pháp ướt. Mặt
khác lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tốn nhiều công phơi đảo, đòi hỏi diện
tích kho và sân phơi lớn. Hiện nay, ở nước ta chế biến cà phê vẫn chủ yếu ở
quy mô gia đình ( 80% sản lượng cà phê ). Vì thế, tính đồng bộ kém, thiết bị
chế biến đơn giản, chủ yếu là các máy xát nhỏ. Hiện tại, cả nước mới có 50
dây chuyền chế biến công nghiệp, trong đó có 14 dây chuyền nhập ngoại
( một của Anh và 3 của Brazil), số còn lại được chế tạo trong nước với tổng
công suất 100000 tấn nhân/ năm ( công suất mỗi dây chuyền từ 1-4 tấn/
giờ ). Từ những thực tế trên đây, mặc dù chất lượng vốn có của cà phê vối
( Robusta ) trồng ở nước ta được đánh giá cao: chất lượng thử nếm có 35%
19
rất tốt; 50% tốt; 10% ở mức trung bình và chỉ có 5% là loại trung bình kém.
Song trên thực tế, chất lượng cà phê nhân suất khẩu của Việt Nam lại không
thể hiện những chỉ tiêu trên. Mấy năm gần đây, tỷ lệ cà phê xuất khẩu loại I
ở nước ta chỉ đạt mức dưới 20%. Ngoài các nguyên nhân trên, chất lượng cà
phê xuất khẩu của ta bị giảm sút do sự đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch
chưa tương xứng với tốc độ tăng nhanh của sản lượng. Thêm vào đó, giá
thành sản xuất cà phê ở nước ta so với các nước là tương đối cao( tới hàng
triệu đồng/tấn ).Giá thành sản xuất tại các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty
Cà phê Việt Nam là khoảng 13-15 triệu đồng/tấn; ở khu vực tư nhân giá
thành khoảng dưới 10 triệu/tấn. Có thực tế này là do khấu hao cơ bản và xây
dựng hạ tầng chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành. Chi phí về chế biến có sự
dao động lớn ( từ 800-1800đ/kg ) phụ thuộc vào quy mô, loại hình và mức

độ trang bị. Theo ý kiến của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, vấn đề đánh
giá chất lượng cà phê của nước ta cũng có nhiều bất cập với các tiêu chuẩn
quốc tế, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả xuất khẩu. Cách tính lỗi của
tiêu chuẩn Việt Nam quy định theo %, trong khi tiêu chuẩn thị trường kỳ hạn
Luân Đôn tính lỗi theo cách đếm. Tiêu chuẩn Việt Nam quy định kích cỡ hạt
trên sàng số 16 ( 6.3 mm ), trong khi nhiều khách nước ngoài lại yêu cầu cà
phê loại kích thước trên sàng là số 18 ( tức 7.15 mm ). Những bất đồng trong
cách xác định tiêu chuẩn trên đây đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng
xuất khẩu của cà phê Việt Nam. Vì vậy, thống nhất tiêu chuẩn trong đánh
giá chất lượng là việc làm cần thiết, tránh những bất lợi cho ngành cà phê
nước ta.
3.2.4. Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu
Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa gắn sản xuất với chế biến, thu
mua, xuất khẩu. Thực trạng hiện tại là người sản xuất chỉ biết sản xuất còn
các khâu sơ chế, chế biến, thu gom, xuất khẩu hoàn toàn do các doanh
20
nghiệp, tư thương lo liệu. Tình hình trên đã dẫn đến hậu quả là sản lượng cà
phê dư thừa, ứ đọng lớn, chất lượng và giá cả giảm. Một số năm nhà nước
phải bù lỗ lãi suất ngân hàng để mua cà phê tạm trữ xuất khẩu. Người trồng
cà phê luôn trong cảnh thiếu thông tin và thông tin không được cập nhật làm
họ không nắm được giá cả diễn biến trong năm để có phương hướng điều
chỉnh mức cầu thích hợp với diễn biến của thị trường cho mùa vụ tới. Thiếu
thông tin người nông dân không còn kiểm soát được việc bán sản phẩm, khi
nào thì nên bán, bán với giá bao nhiêu, vì vậy thường xuyên bị ép giá. Người
trồng cà phê cho biết họ không nhận được sự giúp đỡ nào khi bán sản phẩm
cho những công ty chế biến hoặc xuất khẩu cà phê. Hơn nữa, việc sản xuất
phân tán tạo ra những khó khăn lớn trong việc tập trung nguồn hàng và giao
hàng đúng hạn theo hợp đồng đã kí kết. Với trên 150 đơn vị xuất khẩu và
gần chục công ty nước ngoài đặt cơ quan đại diện tại Việt Nam để kinh
doanh, dẫn đến tình trạng lộn xộn trong kinh doanh, tranh mua, tranh bán,

làm giảm giá cà phê xuất khẩu và mất uy tín đối với khách hàng. Việc chưa
hình thành tập đoàn xuất khẩu cà phê Việt Nam cho đến nay là nhược điểm
về tổ chức và quản lý, cần phải được xem xét. Ở Brazil, ủy ban các nhà xuất
khẩu cà phê Brazil ( Cecafe ) đã được thành lập từ lâu, đang chỉ đạo có hiệu
qủa mọi hoạt động xuất khẩu cà phê nước này, đồng thời có ảnh hưởng rất
lớn đến thị trường cà phê thế giới.
3.2.5. Thiếu vốn
Xét cho cùng, nguyên nhân sâu xa của sự yếu kém về chất lượng,
sự bất cập trong sản xuất và chế biến cũng là do nguồn kinh phí, nguồn vốn
đầu tư. Thật thế, người trồng cà phê ở Việt Nam đa phần là các hộ nông dân
nghèo và vốn họ đầu tư chủ yếu là vốn vay ngân hàng, phải trả lãi suất. Do
đó việc đầu tư cho sản xuất có phần hạn chế, ảnh hưởng đến sản lượng và
chất lượng cà phê. Cho dù có nhiều doanh nghiệp lớn tham gia vào kinh
21
doanh cà phê thì khả năng tài chính vẫn chưa đủ mạnh để có thể trang bị
máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất. Thế nên, vốn đầu tư luôn là
vấn đề đáng quan tâm, có ảnh hưởng rất lớn. Việc tìm giải pháp hỗ trợ vốn
là rất quan trọng cho ngành cà phê ở các tỉnh nói riêng và toàn quốc nói
chung. Tuy nhiên, thực hiện được các giải pháp hỗ trợ vốn không phải là
công việc dễ dàng. Đây vẫn là vấn đề bất cập đòi hỏi cần có giải pháp hợp
lý. Trước tình hình mất giá của cà phê trong một thời gian dài, hiệp hội các
nước xuất khẩu cà phê ( ACPC ) yêu cầu các nước thành viên giữ lại 20%
lượng cà phê xuất khẩu ở mỗi nước nhằm cân bằng cán cân cung cầu, kích
cho giá cà phê quốc tế tăng lên. Để bù lỗ cho người sản xuất và kinh doanh
cà phê, nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê là Brazil bỏ ra 100 triệu
USD, Colombia cũng chi tới 60 triệu USD. Việt Nam cũng có chủ trương
ủng hộ quyết định của ACPC và đang tìm giải pháp hỗ trợ cho người trồng
cà phê trong nước như khoanh nợ cho người nông dân, lập các dự án cho
nông dân vay phân bón với lãi suất ưu đãi. Tuy nhiên, những chương trình
hỗ trợ đó ít thu được kết quả khả quan. Người trồng cà phê cho biết, các dự

án cho nông dân vay phân bón với giá ưu đãi với điều kiện phải trả trước
một khoản tiền, người nghèo nếu muốn vay cũng khó có tiền ứng trước nên
đành chịu. Hơn nữa, các chương trình hỗ trợ này thường do cán bộ địa
phương điều hành việc phân phối và thu nợ nên họ cũng có tâm lý “ ngại “
những hộ nghèo vì sợ sau này họ không trả được tiền phân bón. Thế nên khó
khăn thì vẫn trồng chất, người nông dân nghèo vẫn là người chịu thiệt nhất
khi thị trường cà phê khủng hoảng. Đảm bảo sự công bằng hợp lý trong hỗ
trợ, đầu tư vốn cũng là vấn đề cần bàn tới.
Tuy nhiên, giải quyết được vấn đề cho vay thì vấn đề trả nợ lại là
chuyện cũng cần phải xem xét. Trường hợp vay vốn đối với cà phê Đăk Lăk
là một ví dụ.Thực hiện chủ trương của Nhà nước giúp các doanh nghiệp,
22
người trồng kinh doanh, xuất khẩu cà phê vượt qua giai đoạn khó khăn, niên
vụ cà phê 2002-2003, các chi nhánh ngân hàng thương mại đã cho vay đối
với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cà phê trên địa bàn tỉnh Đăk Lăk là 3073
tỷ đồng, tăng 66.3% so với niên vụ trước và đạt tổng doanh số cho vay là
2866 tỷ đồng, tăng 71%. Doanh số cho vay và thu nợ trên chủ yếu được thực
hiện ở lĩnh vực thu mua xuất khẩu cà phê ( chiếm 82.4% doanh số cho vay
và 79.7% doanh số thu nợ; phần còn lại là khoản cho vay chăm sóc cà phê
kinh doanh.
Niên vụ cà phê 2002-2003, giá cà phê vẫn chưa được cải thiện bao
nhiêu, nếu so sánh giữa chi phí sản xuất và giá xuất khẩu thì người sản xuất,
kinh doanh cà phê vẫn lỗ; thực hiện Chỉ thị 06/2001/CT-NHNH của Thống
đốc NHNN Việt nam, các ngân hàng đã tiếp tục cho vay để người dân và
doanh nghiệp trong tỉnh có điều kiện chăm sóc duy trì vườn cà phê. Ở lĩnh
vực thu mua, xuất khẩu, các ngân hàng đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu vay vốn
của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thực hiện Nghị quyết 05/2002/NQ-CP
của Chính phủ về việc miễn lãi vay ngân hàng cho các hộ nông dân ở các
tỉnh Tây Nguyên vay vốn chăm sóc cà phê niên vụ 2001-2002; đầu niên vụ
2002-2003, các chi nhánh ngân hàng thương mại, quỹ tín dụng nhân dân

thực hiện lập hồ sơ và tiến hành các thủ tục để miễn lãi đối với các hộ chưa
trả lãi cho ngân hàng và hoàn lãi đối với 97 nghìn hộ đã trả lãi cho ngân
hàng ( trong đó đa số là đồng bào dân tộc thiểu số ) với tổng số tiền đến hơn
92 tỷ đồng. Tuy nhiên, khi thực hiện chủ trương khoanh nợ cho người trồng,
chăm sóc, thu mua và chế biến cà phê, các ngân hàng vẫn còn gặp một số
khó khăn sau: thứ nhất, theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Lăk và công văn chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước
chi nhánh tỉnh Đăk Lăk, các ngân hàng đã có kế hoạch và biện pháp thu hồi
nợ khoanh trước thời hạn đối với người vay tự nguyện trả nợ, điều này sẽ
23
giúp làm giảm gánh nặng trả nợ cho các doanh nghiệp và hộ sản xuất khi hết
thời hạn khoanh nợ, nhưng nhiều doanh nghiệp và hộ sản xuất chưa thấy hết
ý nghĩa của vấn đề này nên khi có tiền vẫn không trả cho ngân hàng mà sử
dụng vào việc khác, trong khi đó ngân hàng không đủ nguồn vốn cần thiết
để tiếp tục cho những doanh nghiệp và hộ sản xuất khác vay. Thứ hai, đến
nay các ngân hàng thực hiện chủ trương miễn và hoàn lãi cho các hộ nông
dân trong việc vay chăm sóc cà phê niên vụ trước vẫn chưa nhận được số
tiền cấp bù từ Chính phủ. Thứ ba, hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh cà
phê đã vay vốn ngân hàng hiện nay đều có tình hình tài chính rất xấu, tuy giá
cà phê có phần được cải thiện, nhưng các doanh nghiệp vẫn tiếp tục thua lỗ,
trong khi thời hạn trả nợ được khoanh đã gần kề ( 01/8/2004 ) nên tình hình
thu hồi nợ của các ngân hàng chắc chắn sẽ gặp không ít khó khăn. Thứ tư ,
tình trạng chây ỳ không trả nợ, chỉ trông vào các chính sách của Nhà nước
trong một số khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công tác thu hồi nợ
của các ngân hàng. Thứ năm, một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà
phê của Nhà nước thuộc diện giải thể, phá sản theo Quyết định 261/QĐ-TTg
đang còn dư nợ vay tại các ngân hàng rất lớn, trong khi cân đối giữa các
khoản phải trả( chủ yếu là những khoản vay ngân hàng không có tài sản bảo
đảm ) với trị giá tài sản còn lại và các khoản được thu của các doanh nghiệp
có sự chênh lệch rất lớn, do đó nguy cơ rủi ro mất vốn của các ngân hàng

thương mại là khó tránh khỏi nếu không có các biện pháp thu hồi.
Từ những thực tế trên, có thể thấy vấn đề nguồn vốn đầu tư cho
ngành cà phê còn rất nhiều bất cập, đòi hỏi phải có biện pháp giải quyết hợp
lí, kịp thời, sớm giúp ngành khắc phục khó khăn, đẩy mạnh cạnh tranh quốc
tế.
3.2.6. Chưa trú trọng đến thị trường nội địa.
24
Tuy chưa có một thống kê chính thức nào về lượng cà phê tiêu thụ
trong nước, song theo một số nghiên cứu độc lập thì con số này có thể dao
động từ 30 ngàn đến 70 ngàn tấn một năm, một con số chưa thể gọi là lớn
đối với một nước 80 triệu dân. Trong khi tập trung lớn cho thị trường xuất
khẩu, ngành cà phê Việt Nam đã bỏ ngỏ thị trường nội địa, một bãi phù sa
màu mỡ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Các đại gia thế giới đang tràn vào
với những thương hiệu như Nestle, King, American Eagle Vì vậy bỏ qua
thị trường trong nước, quá trú trọng đến thị trường xuất khẩu là hướng đi
chưa đúng đắn, cần được nhìn nhận lại và sửa đổi trong thời gian tới.
III. Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành cà
phê Việt Nam
Nhiều dự báo về tình hình buôn bán và cung cầu cà phê cho thấy:
trong những năm tới, tình trạng cung vượt cầu vẫn là xu hướng chủ yếu và vì
vậy giá cà phê khó có khả năng phục hồi trở lại những thời điểm huy hoàng.
Điều đó cũng có nghĩa, cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng quyết
liệt. Do đó, muốn đứng vững và phát triển, không để bị loại trừ, ngành cà
phê Việt Nam phải sớm có những phương hướng, giải pháp để khắc phục
những hạn chế, những tồn tại đang đe dọa đến khả năng cạnh tranh của
ngành.
III.1. Phương hướng.
Ngành cà phê Việt Nam hiện nay đang thực hiện điều chỉnh
phương hướng chiến lược nhằm vào những nội dung chủ yếu sau đây:
Tăng cường vốn đầu tư, tìm giải pháp huy động vốn hiệu quả.

Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, xác định mục tiêu chiến lược cho ngành.
25

×