Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Y học cổ truyền NAM KINH Part 2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.99 KB, 7 trang )

Y học cổ truyền NAM KINH Part 2



NAN 9
Điều 9 Nan nói: “Làm thế nào để biết 1 cách phân biệt bệnh ở tạng hay ở phủ ?”.
Thực vậy: “Mạch Sác là bệnh ở phủ, mạch Trì là bệnh ở tạng. Mạch Sác gây thành
nhiệt, mạch Trì gây thành hàn. Các chứng Dương gây thành nhiệt, các chứng Âm gây
thành hàn. Cho nên, ta nhờ đó mà biết 1 cách phân biệt về bệnh của tạng phủ vậy”.
NAN 10
Điều 10 Nan ghi: “Một mạch có thể thành thập biến. Như vậy có nghĩa là gì ?”.
Thực vậy: Đây là ý nói về “ngũ tà cương nhu” cùng gặp nhau vậy.
Giả sử như Tâm mạch bị Cấp thậm, đó là tà khí của Can “can: thừa lên” Tâm; Tâm
mạch bị vi Cấp, đó là tà khí của Đởm thừa lên Tiểu trường; Tâm mạch bị Đại thậm, đó
là tà khí của Tâm tự thừa lên mình; Tâm mạch bị vi Đại, đó là tà khí của Tiểu trường tự
thừa lên Tiểu trường; Tâm mạch bị Hoãn thậm, đó là tà khí của Tỳ thừa lên Tâm; Tâm
mạch bị vi Hoãn, đó là tà khí của Vị thừa lên Tiểu trường; Tâm mạch bị Sắc thậm, đó là
tà khí của Phế thừa lên Tâm; Tâm mạch bị vi Sắc, đó là tà khí của Đại trường thừa lên
Tiểu trường; Tâm mạch bị Trầm thậm, đó là tà khí của Thận thừa lên Tâm; Tâm mạch
bị vi Trầm, đó là tà khí của Bàng quang thừa lên Tiểu trường. Ngũ tạng đều có tà khí
thuộc cương nhu, cho nên mới có việc một mạch mà rồi biến thành thập biến vậy.
NAN 11
*Điều 11 Nan ghi: “Kinh nói rằng: mạch chưa đầy 50 động mà đã có một “chỉ”, đó là
một tạng không còn khí. Đó là tạng nào ?”
Thực vậy: “Con người khi hít vào, nó đi theo Âm để vào, khi ta thở ra, nó sẽ theo
Dương để ra, nay khi hít vào nó không thể đến Thận chỉ đến Can thì nó đã quay trở ra,
do đó ta biết có một tạng không còn khí, Thận khí bị tận trước”.
NAN 12
Điều 12 Nan nói: “Kinh nói rằng: Mạch của ngũ tạng đã tuyệt bên trong mà người
thầy dụng châm, ngược lại, làm thực cho bên ngoài; mạch của ngũ tạng đã tuyệt bên
ngoài mà người thầy dụng châm, ngược lại, làm thực cho bên trong. Làm thế nào để


phân biệt được là đang tuyệt trong hay đang tuyệt ngoài ?”.
Thực vậy: “Khi nói “Mạch của ngũ tạng đã tuyệt bên trong” đó là nói khí của Thận và
Can đã tuyệt ở bên trong, trong lúc đó người thầy thuốcd, ngược lại, châm bổ cho Tâm
và Phế.
Khi nói “Mạch của ngũ tạng đã tuyệt ở bên ngoài”, đó là nói khí (mạch) của Tâm Phế
đã tuyệt ở bên ngoài, trong lúc đó người thầy thuốc, ngược lại, châm bổ cho Thận và
Can. Dương tuyệt lại bổ Âm, Âm tuyệt lại bổ Dương, đó gọi là thực thêm cho cái đang
thực, hư thêm cho cái đang hư, đó là làm tổn thêm cho cái đang bất túc, làm tăng thêm
cho cái đang hữu dư. Như vậy, nếu người bệnh có bị chết, là do người thầy thuốc đã
giết người vậy”.
NAN 13
Điều 13 Nan nói: “Kinh nói rằng: Thấy được sắc diện mà không đắc được mạch
tương ứng, ngược lại chỉ đắc được mạch “tương thắng”, như vậy là chết. Khi nào đắc
được mạch tương sinh, bệnh xem như có thể tự khỏi. Vậy, làm thế nào để biết được là
sắc và mạch phải cùng “tham” và cùng “ứng” với nhau ?”.
Thực vậy: “Ngũ tạng đều có ngũ sắc, tất cả đều biểu hiện lên trên mặt. Nó cần phải
tương ứng với Thốn khẩu và phần Xích nội.
Giả sử sắc diện hiện lên thanh, mạch của nó phải huyền và cấp; sắc diện hiện lên
xích, mạch của nó phải phù đại mà tán; sắc diện hiện lên hoàng, mạch của nó phải
trung hoãn mà đại; sắc diện hiện lên bạch, mạch của nó phải phù sắc mà đoản; sắc
diện hiện lên hắc, mạch của nó phải trầm sắc mà hoạt. Đây là các trường hợp mà ngũ
sắc và mạch phải cùng tương tham, tương ứng vậy.
Mạch sác thì nơi bì phu của bộ Xích cũng sác; mạch cấp thì nơi bì phu của bộ Xích
cũng cấp; mạch hoãn thì nơi bì phu của bộ Xích cũng hoãn; mạch sắc thì nơi bì phu
của bộ Xích cũng sắc; mạch hoạt thì nơi bì phu của bộ Xích cũng hoạt. Ngũ tạng đều
có đủ (ngũ) thanh, (ngũ) sắc, (ngũ) xú, (ngũ) vị, tất cả đều phải tương ứng với nơi Thốn
khẩu và Xích nội. Khi nào chúng không tương ứng là bị bệnh.
Giả sử như sắc diện hiện lên màu thanh, mạch của nó lại là phù sắc mà đoản, nếu là
đại mà hoãn đều gọi là tương thắng; mạch phù đại mà tán, nếu là tiểu mà hoạt đều gọi
là tương sinh. Kinh nói rằng: (người thầy thuốc nào) chỉ biết có một cách chẩn thì thuộc

về hạ công, biết được hai cách chẩn thì thuộc về trung công, biết được ba cách chẩn
thì thuộc về thượng công. Bậc thượng công thì giải quyết 10 lần được 9, bậc trung
công giải quyết 10 lần được 8, kẻ hạ công giải quyết 10 lần chỉ được 6. Đó là nói về ý
nghĩa mà ta vừa nói trên vậy”.
NAN 14
Điều 14 Nan nói: “Mạch có “tổn”, có “chí”, thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy: “Mạch của “chí” gồm có: 1 hô có 2 chí gọi là bình, (1 hô) 3 chí gọi là ly
kinh, (1 hô) 4 chí gọi là đoạt tinh, (1 hô) 5 chí gọi là chết, (1 hô) 6 chí gọi là mệnh tuyệt,
đây là những mạch tử.
Thế nào là mạch “tổn”?
Một hô mạch 1 chí gọi là ly kinh; (2 hô) 1 chí gọi là đoạt tinh; (3 hô) 1 chí gọi là tử; (4
hô) 1 chí gọi là mệnh tuyệt. Đây gọi là mạch tổn.
Mạch chí đi từ dưới lên trên, mạch tổn đi từ trên rồi xuống dưới. Mạch tổn gây thành
bệnh như thế nào ?
Thực vậy: “Một tổn, tổn ở bì mao, da nhăn, lông rụng. Hai tổn, tổn ở huyết mạch,
huyết mạch bị hư thiểu không còn làm vinh (tươi) cho ngũ tạng, lục phủ. Ba tổn, tổn ở
cơ nhục, cơ nhục bị tiêu hao, gầy còm, việc ăn uống không còn giúp cho phần cơ nhục
và bì phu nữa. Bốn tổn, tổn ở cân, cân bị lơi lỏng không còn đủ sức để co duỗi và giữ
vững thân thể được nữa. Năm tổn, tổn ở cốt, cốt bị nuy (liệt) không thể ngồi lên khỏi
giường được nữa. Khác với những (tổn bệnh) là bệnh của mạch “chí”.
Nếu bệnh từ trên xuống, đó là bệnh “cốt nuy”, không ngồi lên khỏi giường nổi, chết.
Nếu bệnh từ dưới lên, đó là bệnh da nhăn và lông rụng, chết.
Phép trị bệnh của mạch “tổn” như thế nào ?
Thực vậy: “Nếu bị tổn ở Phế thì nên “ích” cho Phế khí, bị tổn ở Tâm thì nên điều khí
vinh vệ, bị tổn ở Tỳ thì nên điều hòa sự ăn uống, thích ứng với cuộc sống ấm lạnh, bị
tổn ở Can thì làm lơi hơn phần trung khí, bị tổn ở Thận thì nên “ích” cho tinh khí. Đây là
những phép trị về bệnh “tổn”.
Mạch có loại 1 hô 2 chí, 1 hấp 2 chí; có loại 1 hô 3 chí, 1 hấp 3 chí; có loại 1 hô 4 chí,
1 hấp 4 chí; có loại 1 hô 5 chí, 1 hấp 5 chí; có loại 1 hô 6 chí, 1 hấp 6 chí; có loại 1 hô 1
chí, 1 hấp 1 chí; có loại 2 hô 1 chí, 2 hấp 1 chí; có loại hô và hấp 2 chí. Mạch thì cứ đến

như thế, nhưng làm thế nào phân biệt để biết được bệnh của nó ?
Thực vậy: “Mạch đến “1 hô 2 chí, 1 hấp 2 chí, không đại không tiểu”, gọi là bình; “1
hô 3 chí, 1 hấp 3 chí” được xem là đúng lúc bị bệnh; khi nào trước đại sau tiểu tức bị
bệnh đầu thống mắt hoa; khi nào trước tiểu sau đại tức bị bệnh ngực đầy khí ngắn; khi
nào 1 hô 4 chí, 1 hấp 4 chí đó là bệnh muốn trở nặng thêm; lúc mạch hồng đại là bệnh
bứt rứt, đầy; lúc mạch trầm tế là bị chứng trong bụng bị thống; khi nào mạch hoạt thì
khí bị thương bởi nhiệt; khi mạch sắc tức là trúng bởi vụ và lộ; khi nào 1 hô 5 chí, 1 hấp
5 chí, người bệnh đang khốn nguy; mạch trầm tế thì ban đêm nặng thêm, mạch phù đại
thì ban ngày nặng thêm, khi nào không đại không tiểu thì tuy đang nguy khốn cũng có
thể trị được, còn nếu như có đại có tiểu thì sẽ khó trị. Khi nào 1 hô 6 chí, 1 hấp 6 chí,
đó là tử mạch, khi mạch trầm tế thì chết vào ban đêm, mạch phù đại thì chết vào ban
ngày. Khi nào 1 hô 1 chí, 1 hấp 1 chí thì gọi tên là “tổn”. Dù cho người bệnh còn có thể
đi đứng được, nhưng nên để cho họ nằm trên giường là hơn. Tại sao vậy ? Bởi vì
người bệnh huyết khí đều bất túc; nhất hô 2 chí, hô hấp 2 chí (1 hấp 2 chí), gọi là vô
hồn, mạch vô hồn sẽ chết, con người dù đi được mà vẫn được gọi là “xác chết biết đi”.
Khi mà thượng bộ còn mạch, hạ bộ không còn mạch, người bệnh đáng phải thổ mà
không thổ được, phải chết. Khi mà thượng bộ không còn mạch, hạ bộ còn mạch, tuy bị
vào tình trạng nguy khốn, nhưng sẽ không bị hại gì. Tại sao thế ? Vì ví như con người
còn bộ Xích, thân cây còn có rễ, cành lá tuy khô héo nhưng gốc và rễ sẽ tự sinh ra
(cành lá). Mạch có gốc rễ, con người có nguyên khí, nhờ đó mà biết rằng người bệnh
này không chết.
NAN 15
Điều 15 Nan nói: “Kinh nói: Mùa xuân mạch huyền, mùa hạ mạch câu, mùa thu mạch
mao, mùa đông mạch thạch. Đó là vượng mạch ư ? Là bệnh mạch ? (mạch vượng hay
mạch sắp bệnh).
Thực vậy: “Mạch huyền, mạch câu, mạch mao, mạch thạch là mạch của tứ thời. Khi
nói mùa xuân mạch huyền, là vì Can thuộc đông phương Mộc, đó là lúc vạn vật mới
sinh ra, chưa có cành lá, vì thế mạch đến “nhu nhược: yếu đuối, nhẹ” mà trường cho
nên gọi là “huyền”.
Khi nói hạ mạch câu, là vì Tâm thuộc nam phương Hỏa, đó là lúc vạn vật đang lúc

thịnh, cành buông ra, lá phủ đầy, tất cae đều buông xuống gãy khúc như móc câu. Vì
thế mạch của nó đến thật nhanh, đi thật chậm, gọi là “câu”.
Khi nói thu mạch mao, là vì Phế thuộc tây phương Kim, đó là lúc vạn vật đang quay
về chỗ “chung: dứt”, hoa lá, cỏ cây đều úa và rụng xuống, chỉ còn trơ lại có cành giống
như những sợi lông mao, vì thế mạch đến khinh hư mà phù, gọi là “mao”.
Khi nói đông mạch thạch, là vì Thận thuộc bắc phương thủy, đó là lúc vạn vật đang
tàng ẩn. Thời thịnh đông nước ngưng đọng lại như “thạch: đá”, vì thế mạch đến “trầm
nhu mà hoạt”, gọi là “thạch”.
Trên đây là các mạch của tứ thời.
“Nếu như các mạch trên đây có “biến” thì như thế nào ?”.
Thực vậy: “Mạch của mùa xuân là huyền. Khi phản lại là bị bệnh. Vậy thế nào gọi là
“phản” ?”.
Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, đó gọi là thái quá, bệnh ở ngoài. Khi
mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trung. Khi mạch khí đến nhẹ nhàng, êm
ả như chiếc lá du lướt qua, gọi là bình. Khi (mạch khí đến) ngày càng thực mà hoạt như
cành trúc dài quét qua gọi là bệnh. Khi (mạch khí đến) gấp mà thẳng cứng, ngày càng
cứng mạnh như dây cung mới được giương căng lên, gọi là “tử”. Mạch của mùa xuân
được “vi huyền” thì gọi là bình. Khi huyền đa mà Vị khí thiểu, gọi là bệnh. Nếu chỉ có
huyền mà Vị khí gọi là tử. Mùa xuân lấy Vị khí làm gốc”.
“Mạch của mùa hạ là câu. Khi “phản” lại là bị bệnh. Vậy thế nào gọi là phản ?”.
Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, đó gọi là thái quá, bệnh ở ngoài. Khi
mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trong. Khi mạch khí đến như xâu chuỗi
xoắn nhau ví như chiếc vòng ngọc như ngọc lang can xô nhau tới, gọi là bình. Khi
(mạch khí) sác ngày càng tăng, như con gà nhảy chân lên, đó là bệnh. Khi (mạch khí
đến) như (câu móc) trước gãy khúc lại, sau cứng thẳng ví như (ta) cầm lấy sợi dây đai
có câu móc, gọi là tử. Mạch của mùa hạ được “vi câu” thì gọi là bình. Khi câu đa mà Vị
khí thiểu gọi là bệnh. Nếu chỉ có “câu” mà không có vị khí gọi là tử. Mùa hạ lấy Vị khí
làm gốc”.
“Mạch của mùa thu là mao. Khi “phản” lại là bị bệnh. Vậy thế nào gọi là phản ?”.
Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, cũng gọi là thái quá, bệnh ở ngoài. Khi

mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trong. Khi bệnh khí đến một cách rậm
mát như cái mui xe (che lại), án lên nó sẽ lớn hơn, đó gọi là bình. Khi mạch khí đến mà
không lên, không xuống như ta vuốt lên lông của gà, gọi là bệnh. Khi ta án lên mạch khí
sẽ tiêu, mất dần như gió thổi lên lông mao, đó là “tử”. Mạch của mùa thu được “vị mao“
gọi là bình. Khi mao đa mà Vị khí thiểu gọi là bệnh. Nếu chỉ có mao mà không còn Vị
khí gọi là “tử”. Mùa thu lấy Vị khí làm gốc”.
“Mạch của mùa đông là thạch. Khi “phản” lại là bị bệnh. vậy thế nào gọi là “phản”?”.
Thực vậy: “Khi mạch khí đến “thực, cường”, đó gọi là thái quá, bệnh ở ngoài. Khi
mạch khí đến “hư, vi” đó gọi là bất cập, bệnh ở trong. Mạch khí đến trên thì đại, dưới thì
suông suốt, nhu hoạt (trơn nhuận) như cái mỏ con chim sẻ, đó gọi là bình. (Mạch đến
như tiếng chim sẻ) mổ rồi mổ không ngừng, (trong lúc đó mạch của Tỳ đến để làm cho)
thành gãy nhẹ, gọi là bệnh. (Khi mạch đến) là đang mở dần mối dây, khi mạch đi như
đang bắn một viên đá, gọi là “tử”. Mạch của mùa đông được “vi thạch” thì gọi là bình.
Khi thạch đa mà Vị khí thiểu gọi là bệnh. Khi thạch đa mà không còn Vị khí gọi là “tử”.
Mùa đông lấy Vị khí làm gốc. Vị là biên của thủy cốc, nó chủ về bẩm thụ khí của tứ thời,
vì thế (tứ thời) đều lấy Vị khí làm gốc, cho nên mới gọi “sự biến của tứ thời” chính là
những điểm “yếu hội” của vấn đề bệnh tật và tử sinh vậy.
Tỳ đóng vai trung châu (bãi đất ở giữa). Khi nào khí trong người được bình hòa thì ta
không thấy nó hiện ra, chỉ khi nào khí bị suy thì nó mới hiện ra. Khi mạch hiện ra như
chim sẻ đang mổ, như giọt nước đang chảy xuống và chảy giọt ra ngoài. Đó chính là sự
biểu hiện của Tỳ khí đang lúc suy vậy”.

×