Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

NHIỄM TRÙNG HUYẾ T KHÔNG CÓ NGHẼN MẠCH DO TAI pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (946.77 KB, 5 trang )

NHIỄ M TRÙNG HUYẾ T KHÔNG CÓ NGHẼ N MẠ CH DO TAI



Bộ môn Tai Mũi Họng ĐH Y Dược Tp.HCM




Trong bệnh này bệnh nhân có bị viêm tai, có bị nhiễm trùng huyết nhưng không có
tắc tĩnh
mạch bên. Một số tác giả coi bệnh này như là một thể lâm sàng của bệnh viêm
nghẽn tĩnh mạch bên mà ổ viêm khu trú ở vịnh cảnh. Nhiễm trùng huyết không có
nghẽn mạch có những đặ
c
điểm sau đây :

- Bệnh thường xảy ra ở trẻ em nhiều hơn ở người lớn.

- Bệnh thường thấy ở viêm tai cấp tính hơn là trong viêm tai xương chũm mạn tính
hồi viêm.

- Vi trùng gây bệnh thường là streptococ.



TRIỆU CHỨNG
Bệnh cảnh lâm sàng giống hệt như trong viêm nghẽn tĩnh mạch bên có nhiễm
trùng huyết, chỉ
thiếu triệu chứng thực thể của
xương chũm. Em b đang bị viêm tai


cấp tính.
Đột nhiên nó lên cơn r t run rối sốt cao 40
0
. Nhiệt độ dao động, sáng và chiều
khác nhau vài ba

độ. Toàn trạng suy sụp nhanh, bộ mặt nhiễm trùng, môi khô, lưỡi đầy bựa trắng,
nước tiểu ít và chứa nhiều anbumin, mạch nhanh, nhịp thở nhanh cấy máu cho
thấy có vi trùng streptococ. Hiện tượng nhiễm trùng di căn xuất hiện sớm (viêm
khớp). Bề ngoài xương chũm có vẻ bình
thường, chụp X quang thấy xương chũm mờ một cách đều.




BIẾN DlỄN

Bệnh sẽ biến diễn theo một trong ba hướng sau đây :

A) Bệnh mỗi ngày một nặng thêm. Nước tiểu giảm, urê máu tăng. Da mặt trở
nên sạm, mắt có quầng. Bệnh nhân gầy tọp, kiệt sức nhưng vẫn tỉnh táo. Cuối
cùng bệnh nhân chết vì trụy tim mạch. Khả năng này ít thấy.

B) Bệnh qua một cơn kịch phát (sốt cao mê sảng, co giật, mạch nhanh) rồi bớt
dần và khỏi hẳn.
C) Các biến chứng của viêm tai xuất hiện : viêm xương chũm, viêm màng não,
viêm nghẽn tĩnh
mạch bên. Bệnh có nặng thêm nhưng không đến nỗi
tuyệt vọng. Trong khi chẩn đoán bệnh chúng ta phải
loại ra :

- Viêm nghẽn tĩnh mạch bên có nhiễm trùng huyết bằng cách dựa vào bệnh tích
xương ở máng tĩnh mạch bên do X quang phát hiện hoặc bệnh tích ở tĩnh mạch
bên do phẫu thuật cho thấy trên bàn mổ.

- Nhiễm trùng huyết do những nguyên nhân khác (phá thai, hậu sản,thủng
thực quản, loét họng ) chỉ cần hỏi qua bệnh sử chúng ta có thể loại ra
những bệnh này.

Tiên lượng của nhiễm trùng huyết không có nghẽn mạch không được tốt lắm
nhưng vẫn còn nhẹ hơn hiện tượng của viêm nghẽn tĩnh mạch bên.



ĐIỀU TRỊ

1. Điều trị bằng thuốc : Điều trị bằng thuốc là chủ yếu :

Penixilin phối hợp với
strcptomyxin. Aurêômyxin +
sunfamit. . Têtraxyclin,
teramyxin .
Nâng cao thể trạng bằng dung dịch mặn và ngọt. Trợ tim bằng long não,
cafêin, uabain Kích thích sức đề kháng bằng truyền máu, vớ liều lượng
nhỏ và nhiều lần.


2. Điều trị bằng phẫu thuật

Nếu sau khi điều trị bằng thuốc mà bệnh không thuyên giảm thì chúng ta phải
dùng đến phẫu thuật.


A) Khoét xương chũm và bộc lộ tĩnh mạch bên. Tĩnh mạch này có vẻ lành mạnh.
Tuy vậy chúng ta cũng nên "loại trừ" nó ra bằng cách dùng bấc iodorưc chèn ở
hai đầu không cho máu chảy qua .Bấc sẽ được nhét chặt ở giữa màng não và
xương sọ trong vài ngày.

B) Nếu nhiệt độ vẫn chưa hạ xuống, chúng ta nên thắt tĩnh mạch cảnh.

Sau đó nếu vẫn chưa có kết quả, chúng ta phải làm phẫu thuật Grune (Grunert).

×