Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

PHẪU THUẬT NỘI SOI TUYẾN GIÁP pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.83 KB, 15 trang )

PHẪU THUẬT NỘI SOI TUYẾN GIÁP

LỊCH SỬ
Trong lịch sử, bướu giáp được ghi nhận lần đầu tiên ở Trung quốc năm 2700
TCN. Nhưng chỉ đến năm 500 SCN, Abdul Kasan Klebis Abis ở Baghdad mới
thực hiện ca cắt bướu giáp lần đầu tiên. Thập kỷ 1980, có sự phát minh ra hệ thống
camera thu nhỏ, xử lý hình ảnh kỹ thuật số. Trên cơ sở đo, ngành PT nội soi hiện
đại ra đời, đánh dấu bằng trường hợp cắt túi mật nội soi đầu tiên được thực hiện
bởi Phillip Mouret vào năm 1987 tại thành phố Lyon nước Pháp.
Trong PT tuyến giáp kinh điển, sẹo mổ ở cổ luôn luôn lộ ra bên ngoài, ai cũng
nhìn thấy, nhất là khi vết mổ dài và bị sẹo lồi. Bệnh nhân (BN), đặc biệt là nữ có
bướu giáp khi đến cơ sở ngoại khoa ngoài nỗi lo về bệnh “bướu” của mình còn có
thêm băn khoăn về sẹo mổ trên cổ. PT nội soi vùng cổ (bao gồm TG và tuyến phó
giáp) được Gagner và cộng sự thực hiện lần đầu tiên năm 1996. Ông đã tiến hành
cắt toàn bộ tuyến phó giáp qua nội soi. Năm 1997, Yeung và Huscher đã báo cáo
các trường hợp cắt thùy giáp bằng PT nội soi. Đến tháng 3 năm 1998 Kazuo
Shimizu đã báo cáo 120 BN được PT nội soi TG…PT nội soi TG, bên cạnh ưu
điểm chung của PT nội soi là ít xâm lấn còn đạt được kết quả thẩm mỹ nhờ sẹo mổ
nhỏ, được che khuất …
Trong những năm gần đây PT nội soi TG được thực hiện ngày càng nhiều, có
nhiều tiến bộ về phương diện kỹ thuật và mở rộng về chỉ định. Vết mổ lúc đầu ở
cổ, sau này có thể ở xa cổ như dưới đòn, quầng vú, nách
(Error! Reference source not
found.)
.Trong tương lai, PT nội soi TG sẽ thay thế mổ mở đối với một số bệnh lành
tính củaTG, nổi bật nhờ những ưu điểm thẩm mỹ
(Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.)
.
Ở Việt Nam bệnh lý TG khá thường gặp, PT nội soi TG chưa phổ biến rộng rãi.
Từ năm 2002, chỉ mới có một số bệnh viện như BV Nhân Dân Gia Định, BV Nội


Tiết Trung ương, BV Chợ Rẫy, BV Trưng Vương, BV Bình Dân thực hiện được
PT nội soi TG.
CHỈ ĐỊNH PHẪU THUẬT
Hiện nay người ta đã thực hiện PT nội soi TG để điều trị các bệnh phình giáp,
bướu lànhTG, ung thư TG và bệnh basedow
(Error! Reference source not found.)
.
Về chỉ định PT, không có một chỉ định chung cho PT nội soi TG, tuy nhiên chỉ
định thường căn cứ vào: kích thước u, đặc điểm giải phẫu bệnh, bệnh hoặc các can
thiệp khác ở vùng cổ và vị trí, độ dài đường rạch da chính (dài nhất sẽ lấy bướu
qua):
- Kích thước bướu: phần lớn các tác giả chọn bướu có kích thước < 3-4 cm
(Yoshiyuki
(Error! Reference source not found.)
mổ nội soi cho bướu kích thước 6 cm, thậm
chí Chen
(Error! Reference source not found.)
còn mổ bướu có kích thước tới 8 cm).
- Đặc điểm giải phẫu bệnh: thường là loại lành tính, 2 dạng thường gặp là phình
giáp và bướu tuyếnTG.
- Đối với ung thư TG, PT nội soi TG được áp dụng khi bướu có kích thước
<1cm. Đối với ung thư dạng nhú có kích thước <1cm, vấn đề nạo hạch còn
đang bàn cãi. Có tác giả chủ trương nạo hạch, có tác giả cho rằng không cần
phải nạo hạch
(Error! Reference source not found.)
. Muốn nạo hạch cổ thì thường phải
rạch da thêm một đường ở cổ hoặc phải mở rộng đường rạch da phụ ở cổ để
nạo hạch. Các đường rạch da càng xa cổ thì tiếp cận TG và thao tác càng khó
khăn, nguy cơ tai biến cao. Khi bướu quá lớn chiếm cả phẫu trường, vùng mổ
không thể thấy hết trên màn hình thì dễ làm tổn thương xung quanh

(Error!
Reference source not found.)
. Viêm giáp, tiền căn PT tuyến giáp, xạ trị vùng cổ, có bệnh ác
tính khác, có cơ địa dễ chảy máu là những chống chỉ định PT nội soi TG
(Error! Reference
source not found.)
.
NHỮNG NGUYÊN LÝ VÀ KỸ THUẬT CƠ BẢN TRONG PT NỘI SOI
TUYẾN GIÁP
KHOANG PHẪU THUẬT
Một trong những điểm mấu chốt trong PT nội soi là có được khoang làm việc đủ
rộng và phẫu trường rõ ràng. Vùng cổ không có khoang sẵn như ổ bụng, lồng ngực
nên muốn có khoang phẫu thuật phải chủ động tạo ra một khoang. Có hai phương
pháp tạo ra khoang PT, đó là bơm khí CO
2
và sử dụng khung nâng da.
Phương pháp bơm khí CO
2

Phương pháp (PP) này, khoang PT tạo ra có thể rộng hơn so với sử dụng khung
nâng da và người ta có thể PT được cả bướu đường kính > 5,5cm
(Error! Reference source
not found.)
.
Tuy nhiên PP bơm khí CO
2
có thể có những biến chứng như
(Error! Reference source not
found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
:

- Tràn khí dưới da, phù nề vùng cổ.
- Gây cơn nhịp nhanh trên thất.
-Tăng nồng độ CO
2
máu.
Người ta khắc phục những biến chứng trên bằng cách giảm áp lực CO
2
xuống còn
6-10 mmHg.
Phương pháp sử dụng khung nâng
Phương pháp này dựa trên kỹ thuật nâng thành bụng của Nagae. Phẫu trường được
tạo ra bằng cách nâng lớp da cơ (cơ bám da) lên bởi khung nâng.
Phương pháp sử dụng khung nâng da cổ tạo ra phẫu trường hẹp hơn so với bơm
khí CO
2
. Lợi điểm của PP này là tránh được biến chứng do dùng khí CO
2
.
Sử dụng PP này, qua vết mổ chính (hõm ức hoặc dưới đòn) phẫu thuật viên có thể
với tay tới TG để sờ nắn bướu và PT một cách dễ dàng hơn
(Error! Reference source not
found.)
.
TRANG THIẾT BỊ
Các phương tiện máy móc nội soi
- Camera: Camera dùng trong mổ nội soi hiện nay thường rất nhỏ gọn, nặng không
quá vài chục gram. Có loại camera được sản xuât gắn liền với ống kính.
- Nguồn sáng: Hiện nay nguồn sáng được sử dụng là nguồn Xenon, Halogen và
Metalhalide. Mỗi loại có ưu nhược điểm riêng.
- Ống soi: Là một ống hình trụ đựơc bọc ngoài bằng thép không rỉ, ở trong là một

lớp bó sợi thuỷ tinh dẫn truyền ánh sáng bọc quanh một hệ thống thấu kính ở trung
tâm .
- Thiết bị ghi hình: Việc ghi liên tục cuộc mổ được thực hiện bằng cách nối một
máy ghi băng video hoặc đĩa vào hệ thống hình ảnh .
- Máy bơm khí: Nhằm tạo ra và duy trì khí trong khoang PT. Ngoài khả năng bơm
khí vào, máy bơm còn có khả năng kiểm soát lưu lượng khí bơm vào và áp lực
khí bên trong phẫu trường.
-Trocart: dụng cụ xuyên qua da để qua đó cho phép đưa ống soi và dụng cụ phẫu
thuật vào vùng mổ. Trocart thường có 2 cỡ: 10 mm và 5 mm.
Dụng cụ phẫu thuật nội soi
- Kẹp phẫu tích, kéo phẫu thuật …
- Hệ thống hút tưới rữa.
- Dao đốt:
+ Dao đốt điện đơn cực: Được Kocks ở Bonn sử dụng trong việc cầm máu vào
năm 1878. Đốt điện đơn cực làm gia tăng nhiệt độ mô xung quanh đáng kể, trong
5 giây có thể làm tăng nhiệt độ lên 12
0
C.
+ Dao đốt điện lưỡng cực: Khối mô nằm giữa hai điện cực có sự đông và hoại tử
liên quan đến thời gian mô chịu tác động và năng lượng của nguồn điện. Trong đốt
điện lưỡng cực, diện tích bị biến thể và làm khô của mô chỉ vượt quá giới hạn
dụng cụ và mm do mô khi bị đốt tạo ra một điện trở lớn cản trở không cho nhiệt
truyền đi xa. Dòng lưỡng cực do hoạt động ở điện thết thấp nên nó không kích
thích thần kinh cơ, hầu như không tạo nên sự phóng điện và thường dùng chủ yếu
để cầm máu.
+ Dao đốt siêu âm cao tần
Được Amasal thực hiện đầu tiên trên thực nghiệm, sau đó ứng dụng trên lâm sang.
Cơ chế cầm máu nhờ vào sự rung động với tần số 55000 Hz. Nhiệt độ thong
thường khoảng 80 độ C, dẫn đến sự hủy Protein mô. Mạch máu sẽ được bịt kín mà
không hủy mô xung quanh

(Error! Reference source not found.)
. Năng lượng siêu âm chỉ lan
sang bên cạnh trong phạm vi 1mm, tổn thương vi thể 3mm. Dùng dao siêu âm cao
tần lành sẹo tốt hơn đốt điện.
+ Dụng cụ banh ở bên trong (Retractor): có một đầu giống Farabeuf, còn cán thì
nhỏ (đường kính 1,2 mm), dài 15 cm có đầu nhọn để xuyên qua da và được cố
định vào bộ giữ đặc biệt. Dụng cụ banh này dung tạo ra phẫu trường rất thuận lợi,
ngay cả khi cắt khối bướu lớn, cho phép nhìn rộng mặt bên và bảo vệ thần kinh
hồi thanh quản.
VỊ TRÍ ĐƯỜNG RẠCH DA
Nội soi TG vị trí các đường rạch da trong PT nội soi TG luôn luôn được tính toán
sao cho đạt được độ thẩm mỹ nhất: kích thước vết rạch da nhỏ, ở vị trí thích hợp
- Đường rạch da ở cổ (ít dùng): Vết mổ chính ở trên hõm ức khoảng 1cm, dài 2cm
và 2, 3 vết mổ khác ở bờ trước cơ ức đòn chũm
(Error! Reference source not found.)
. Đường
rạch da xa hơn, người ta sử dụng đường rạch da ở dưới cằm, dưới đòn, thành ngực
trước, quầng vú hay nách. Tuy nhiên đường rạch da càng xa TG, thao tác càng khó
khăn và nguy cơ tai biến cao hơn
(Error! Reference source not found.).

- Đường rạch da dưới xương đòn: Đường rạch chính ở dưới xương đòn, các đường
rạch da phụ ở cổ hoặc ở ngực ngay gần đường rạch da chính dài 0,5 cm
(Error!
Reference source not found.)
.
Nếu rạch da ở dưới xương đòn thì sẹo mổ sẽ được che bởi cổ áo. Các vết rạch da
nhỏ ở cổ, sẹo mổ ở cổ sẽ không nhìn thấy sau vài tháng và gần như biến mất sau
một năm
(Error! Reference source not found.)

. Việc sử dụng đường rạch da chính dưới xương
đòn có thể dùng được cho cả phương pháp bơm CO
2
và sử dụng khung nâng
da
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
.
- Đường rạch da vùng trước tim
(Error! Reference source not found.)
: 3 trocart được đưa vào
qua các đường rạch ra ở vùng trước tim, PT nội soi được thực hiện với CO
2

khuyếch tán. Với đường rạch da vùng này có tác giả đã sử dụng để PT điều trị
bệnh Basedow
(Error! Reference source not found.)
.
- Đường rạch da từ quầng vú: Để tránh tạo sẹo ở cổ, rạch da 2 đường ở vùng
quầng vú. Phẫu trường được tạo ra bằng bơm khí CO
2
, áp lực 6mmHg. Đạt được
kết quả mỹ mãn về mặt thẩm mỹ
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.).

- Đường rạch da ở vùng nách: Một trocart 12mm và hai trocart 5mm được đưa
vào qua 3 đường rạch da từ nách. Bơm khí CO
2
khuyếch tán áp lực 4mmHg và
thực hiện PT

(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error! Reference source not
found.)
. Sẹo mổ nhỏ ở vùng nách hoàn toàn được che bởi cách tay của BN trong tư
thế tự nhiên
(Error! Reference source not found.)
. Ngoài ra, một số tác giả như Bellaton thực
hiện PT nội soi TG chỉ bằng một đường rạch da dài 2cm ở trên hõm ức. Phẫu
trường được trình bày bởi banh ở bên trong
(Error! Reference source not found.)
. Yamashita
và cộng sự đã cắt một thùy giáp có màn hình hỗ trợ chỉ qua một đường rạch da
nhỏ dài 2,5 -3,0 cm ở bờ dưới xương hàm, không cần bơm hơi
(Error! Reference source not
found.)
.
CÁC BƯỚC PHẪU THUẬT
- Bệnh nhân được gây mê nội khí quản ở tư thế nằm ngửa, độn gối ở lưng. Nhóm
PT thường có 3 phẫu thuật viên.
- Rạch ra, thường là 3 đường: một đường dài 1 cm và hai đường dài 0,5cm. Lớp
dưới cơ bám da và da được tách ra bằng dụng cụ thường. Đặt các trocart (bơm hơi,
nếu dùng khí), sau đó tiếp tục tách lớp cơ bám da bằng dụng cụ nội soi. Cuối cùng,
tạo phẫu trường bằng cách bơm hơi (7-9 mmHg) hoặc sử dụng khung nâng da.
- Để cầm máu, Kazuo Shimizu dùng dung dịch nước muối sinh lý (30-40ml) pha
với Adrenalin 0,6% tiêm vào dưới da vùng cổ trước
(Error! Reference source not found.)
.
Rạch da tới dưới cơ bám da, dùng dao đốt siêu âm cao tần và dụng cụ cầm nắm
mô vào bóc tách lớp dưới cơ bám da. Sau đó sử dụng khung nâng da hay bơm khí
CO
2

tạo phẫu trường.
- Các mép vết rạch da được phủ silicon để tránh tổn thương do cơ học và nhiệt. Mép
vết rạch da chính không đặt trocar được khâu và nâng lên bởi sợi chỉ khâu cho dễ quan
sát phẫu trường trong trường hợp dùng khung nâng da
(Error! Reference source not found.)
.
- Nếu sử dụng banh bên trong thì đưa dụng cụ này qua vết rạch da dài nhất vào
trong phẫu trường đồng thời xuyên cán của nó (đầu nhọn) qua da ra ngoài .
- Cũng như phẫu thuật kinh điển, cần cắt cân cổ giữa để vào ô tuyến giáp, hoặc xẻ
dọc khối cơ trước cổ để phơi bày tuyến giáp. Nếu bướu lớn (cần một phẫu trường
lớn hơn) thì có thể cắt ngang cơ ức móng và cơ ức giáp để mở rộng khoang phẫu
thuật
(Error! Reference source not found.)
.
Đối với bướu tuyến giáp lành tính
- Cắt bán phần TG
(Error! Reference source not found.)
: PT này thay đổi tuỳ theo kích thước
và vị trí của bướu. Phần mô TG bình thường ở cực trên và mặt sau của TG được
giữ lại để tránh tổn thương nhánh ngoài của thần kinh thanh quản trên và thần kinh
hồi thanh quản. Như thế những thần kinh này không cần bộc lộ rõ
(Error! Reference
source not found.)
.
- Cắt gần trọn hay trọn thùy: Nếu bướu lớn, chiếm gần trọn thuỳ hay chọc hút sinh
thiết bằng kim nhỏ trước mổ là tổn thương tăng sản tế bào Hurthle.
+ Cắt gần trọn thuỳ: Đòi hỏi phải di động hóa cực dưới tuyến giáp, bộc lộ thần
kinh hồi thanh quản đến ngang dây chằng Berry. Tuyến giáp được cắt từ cực dưới
lên cực trên. Thường cực trên có một ít mô lành bình thường, cố gắng giữ lại một
ít mô ở đây để tránh tổn thương thần kinh thanh quản trên. Cắt eo giáp theo mặt

phẳng đứng dọc.
+ Cắt trọn thuỳ: Động mạch, tĩnh mạch giáp trên và động mạch giáp dưới được
bộc lộ để cột hoặc Clip và cắt nơi thân chính (nếu đường kính >5mm). Đối với
tĩnh mạch giáp giữa và dưới chỉ cần đốt cầm máu bằng dao cắt đốt siêu âm cao
tần. Sau đó di động toàn bộ thuỳ để cắt theo PP thẳng đứng ở phần eo giáp (theo
Shimizu, không nên dùng Clip để cầm máu vì đôi khi chúng được sờ thấy ngay
dưới da, khiến BN rất khó chịu
(Error! Reference source not found.)
).
Đối với những bướu ác tính
- Cắt toàn bộ thùy giáp và nạo hạch đối với ung thư dạng nhú, kích thước bướu
<1cm. Tuy nhiên vấn đề nạo hạch phòng ngừa vẫn còn đang được bàn cãi, đặc biệt
đối với ung thư dạng nhú, kích thước bướu <1cm và không phát hiện hạch khi
khám trước mổ.
- Để tạo phẫu trường cho việc nạo hạch cổ, cần rạch một đường 2-3 cm (thay vì
0,5cm như ở bướu lành) ở bên cổ có bướu và dao đốt siêu âm cao tần, dụng cụ
cầm nắm mô, ống soi có thể đưa qua đây nếu cần. Để cắt trọn thuỳ và nạo hạch,
phải cẩn thận khi sử dụng dao đốt vùng gần thần kinh hồi thanh quản để tránh tổn
thương do nhiệt .
- Sau cùng, trường mổ được rửa với nước muối sinh lý và thường đặt một ống dẫn
lưu
(Error! Reference source not found.)
.
CÁC BIẾN CHỨNG
PT nội soi TG có thể có một số biến chứng như
- Chảy máu ít gặp, Miccoli có tỷ lệ 0,9%
(Error! Reference source not found.)
.
- Tụ dịch, phù nề vùng mổ rất ít nếu cầm máu kỹ và dẫn lưu tốt. Tác giả Shisuo
nakano không gặp trường hợp nào tụ máu sau mổ

(Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.)
.
- Tràn khí dưới da không đáng ngại vì khi kết thúc cuộc mổ ta có thể vuốt và “đuổi
khí” qua các lỗ trocart. Trường hợp còn ít khí dưới ra, cơ thể có thể tự hấp thu.
- Nhiễm trùng vết mổ, không nhiều. Miccoli có tỷ lệ 0,3%
(Error! Reference source not
found.)
.
- Tổn thương thần kinh hồi thanh quản: Liệt thần kinh hồi thanh quản là một biến
chứng ít gặp của PT tuyến giáp nhờ vào việc xác định được thần kinh trong khi
mổ. Tuy nhiên biến chứng này không phải là quá hiếm. Có tài liệu ghi nhận biến
chứng này chiếm tỉ lệ 4 – 5 % trong PT tuyến giáp
(Error! Reference source not found.)
. Liệt
thần kinh hồi thanh quản có thể tạm thời do phù nề, chèn ép (Miccoli có tỷ lệ
2,08%
(Error! Reference source not found.)
); có thể vĩnh viễn do thần kinh bị tổn thương do
đốt hoặc bị cắt đứt (Miccoli có tỷ lệ 0,3%
(Error! Reference source not found.)
). Trong PT
tuyến giáp cần lưu ý khi sử dụng dao đốt ở vùng gần thần kinh để tránh gây tổn
thương thần kinh do nhiệt. Theo Shizuo Nakano, liệt thần kinh hồi thanh quản
thoáng qua có thể do sức nóng từ dao đốt siêu âm cao tần. Sức nóng này tăng cao
ngay sau khi đốt. Do đó nên dùng dao đốt nhỏ hơn 20 giây và cách xa thần kinh 3
mm thì không bị tổn thương
(Error! Reference source not found.)
.
Liệt thần kinh hồi thanh quản do phù nề, chèn ép có thể điều trị nội khoa và liệt có

thể hết sau một thời gian. Liệt thần kinh hồi thanh quản do cắt đốt cần phải can
thiệp.
- Các biến chứng khác như hạ can xi huyết, suy cận giáp…, cũng không nhiều.
Miccoli có tỷ lệ suy cận giáp sau mổ là 3,27%
(Error! Reference source not found.)
; Raffaelli
có tỷ lệ hạ canxi máu thoáng qua là 3,92%
(Error! Reference source not found.)
.
LỢI ÍCH CỦA PHẪU THUẬT NỘI SOI TUYẾN GIÁP
Ít đau sau mổ và thời gian phục hồi nhanh. Theo các tác giả như Raffaelli
(Error!
Reference source not found.)
, Gagner và Inabnet
(Error! Reference source not found.)
, đa số BN ít đau
và thời gian hồi phục nhanh. BN của Miccoli thời gian hậu phẫu chỉ có 1,9
ngày
(Error! Reference source not found.)
.
So với mổ mở theo tác giả Miccoli
(Error! Reference source not found.)
sự than phiền về đau
sau mổ hay khó chịu vùng trước cổ ít hơn so với mổ mở (P = 0,003). Điều này
cũng không ngạc nhiên bởi PT nội soi TG là một phẫu thuật xâm lấn tối thiểu.
Đường rạch da ngắn và không kéo vạt da là những yếu tố góp phần giảm đau sau
mổ
(Error! Reference source not found.)
.
Về thẩm mỹ, tâm lý bệnh nhân

Hầu hết BN đều hài lòng với sẹo mổ của mình và tự tin khi giao tiếp
Đối với PT tuyến giáp kinh điển cần phải có đường rạch da trung bình từ 5 – 6 cm
ở cổ. Trong phẫu thuật nội soi nếu rạch da ở cổ thì đường mổ dài nhất chỉ 1,5 – 2
cm, nếu đi đường rạch da ở ngực, quầng vú hay vùng nách thì có thể nói là mổ
“Bướu cổ” mà không có sẹo mổ ở cổ. Sẹo mổ ở ngực, quầng vú hay vùng nách
được áo che nên không nhìn thấy. Như vậy về mặt thẩm mỹ PT nội soi TG đạt kết
quả hơn hẳn so với mổ mở. Ưu điểm này không còn là vấn đề bàn cãi và là đặc
điểm chung cho bất kỳ một PT xâm lấn tối thiểu khác
(Error! Reference source not found.)
.
Sự hài lòng của BN với kết quả PT ít xâm lấn này càng tăng theo thời gian. Khi
so sánh với mổ mở BN được mổ qua nội soi có kết quả thẩm mỹ cao hơn (p <
0,005) và trở lại sinh hoạt bình thường nhanh hơn
(Error! Reference source not found.)
. Bệnh
lý TG thường phổ biến ở phụ nữ, vì thế giảm kích thước đường mổ trên da vùng
cổ thường được ưa chuộng hơn.
Tuy nhiên, với sẹo nhỏ vùng cổ vẫn làm một số BN không hài lòng về mặt thẩm
mỹ. Tác giả Ikeda đã phát triển kỹ thuật mới cho PT nội soi vùng cổ bằng đường
nách hoặc ngực trước
(Error! Reference source not found.)
. Trong kỹ thuật mổ qua đường
ngực trước, vết mổ dưới xương đòn hoàn toàn được che khi BN mặc áo
(Error!
Reference source not found.)
. Trong kỹ thuật mổ tiếp cận qua đường nách sẹo nhỏ để lại ở
vùng nách hoàn toàn được che bởi cánh tay của BN trong tư thế tự nhiên, và kết
quả thẩm mỹ là tốt nhất vì không có sẹo mổ vùng cổ cũng như ở ngực
(Error! Reference
source not found.,Error! Reference source not found.)

. Kỹ thuật này có thể trở thành PP chọn lựa
cho những BN đặc biệt quan tâm đến vấn đề thẩm mỹ
(Error! Reference source not found.)
.
-Phẫu thuật nội soi TG không có sẹo mổ ở cổ còn hạn chế được dị cảm vùng cổ
và khó chịu khi nuốt. Theo tác giả Ikeda
(Error! Reference source not found.)
, trong mổ mở
một số BN (65%) than cứng và dị cảm vùng cổ. Một số BN (30%) than khó chịu
khi nuốt. Sự dính mô dưới da vào sẹo mổ có thể là nguyên nhân gây nên những
than phiền này. Vì thế không có vết sẹo mổ vùng cổ trong PT nội soi là liệu pháp
xứng đáng dành cho những BN có bệnh lý TG.
KẾT LUẬN
PT nội soi TG là một PP mới, có những ưu điểm: ít xâm lấn, đạt kết quả thẩm mỹ
cao mà vẫn đảm bảo yêu cầu về điều trị bệnh nếu thực hiện đúng chỉ định. PT nội
soi điều trị một số bệnh lý TG cho kết quả tốt nhất là đối với phình giáp và bướu
tuyếnTG. Sau mổ, BN ít đau, ít tụ dịch và phù nề vùng mổ. Thời gian nằm hậu
phẫu ngắn, BNsớm trở lại sinh hoạt bình thường.
Bên cạnh ưu điểm trên, PT nội soi TG còn có ưu điểm quan trọng, đặc biệt về
thẩm mỹ va tâm lý BN. Nhờ sẹo mổ nhỏ ở cổ và nhất là khi không có sẹo mổ ở cổ
như trong trường hợp dùng đường rạch da ở ngực, vùng nách, sau mổ BN cảm
thấy thoải mái và tự tin khi giao tiếp.

×