Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Rau khúc vị thuốc quý trong những ngày xuân ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.6 KB, 11 trang )

Rau khúc vị thuốc quý trong những ngày xuân

Rau khúc vừa làm bánh được vừa làm thuốc chữa
bệnh rất tốt.
Rau khúc là một loài rau dại. Hằng năm, cứ tới mùa
xuân, cây lại xuất hiện, mọc lên khắp nơi, thường
hay gặp nhất ở trên các bãi hoang, bờ ruộng, bờ cát
ven sông
 Thuốc hay từ rau muống
 Chanh - Vị thuốc quý chớ nên coi thường!
 Rau mùi: Gia vị ngon, thuốc quý
 "Vị thuốc" từ chuối
 Trái kiwi - Một vị thuốc quý
 Tía tô - Thuốc quý dân gian
 Gừng - Vị thuốc đa dụng trong mùa mưa lũ
 Kinh giới - Thuốc quý của mọi nhà
 Vị thuốc từ quả đu đủ
 Làm thuốc từ quả vả
Trong điều kiện thời tiết khí hậu ở phía Bắc, rau khúc
tốt tươi nhất trong những ngày gần tiết Thanh minh,
nên thời xưa một số địa phương còn đặt cho cây cái
tên “Thanh minh thảo”.
Loài rau dại này có thể luộc hoặc nấu canh ăn như
các thứ rau khác, nhưng chủ yếu được sử dụng để
làm bánh khúc, nên dân gian mới được đặt tên là cây
“Rau khúc”.
Bánh khúc, thực ra chỉ là những nắm xôi, bên trong
có nhân làm bằng lá rau khúc giã nhuyễn, hấp chín
cùng nhân đậu xanh, thịt lợn, hạt tiêu
Thế mà trong những ngày xuân ở phía Bắc, khi tiết
trời vẫn còn giá lạnh, sáng sớm hay đêm khuya, có


được chiếc bánh khúc nóng vào bụng, sẽ có cảm giác
rất khoan khoái và ấm áp trong lòng.
Tiếng rao “Ai bánh khúc nóng ơ!” lúc đêm khuya
suốt một thời gian dài từng là nét văn hóa đặc trưng
của phố cổ Hà Nội. Còn hiện tại, tiếng rao đó chỉ còn
là hoài niệm, thành nỗi nhớ của những người xa xứ
lâu năm.
Hiện tại, trên một số tuyến phố Hà Nội, cũng có một
số hàng chuyên bán bánh khúc; Được quảng cáo là
bánh khúc xịn, nhưng trên thực tế, có khi bánh được
chế biến từ lá su hào hoặc lá gì khác nữa, khó mà biết
được.
Nay muốn có bánh khúc xịn thực sự, chỉ còn cách tự
đi ra ngoại thành thu hái hoặc ra chợ mua rau khúc về
làm.
Cây rau khúc còn có tên là "khúc nếp", "thử khúc
thảo", "thử nhĩ", "hoàng hoa bạch ngải", "phật nhĩ
thảo", "thanh minh thảo", "hài nhi thảo" Tên khoa
học là Gnaphalium affine D. Don (Gnaphalium
multiceps Wall.), thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Rau khúc là loài cây thảo sống hằng năm, thân mảnh,
cao chừng 10-20cm, có lông trắng mềm. Lá thuôn
hình dỉa, có mũi nhọn, với lông mịn trắng ở mặt dưới.
Cụm hoa hình bông hay hình chuỳ mọc ở ngọn. Lá
bắc thuôn hình trái xoan, hoa cái và hoa lưỡng tính
rất nhiều. Tràng hoa các mảnh có ba răng nhỏ, tràng
hoa lưỡng tính phình to từ gốc đến đỉnh.
Quả bế thuôn dài. Loài rau khúc này mọc hoang dại ở
các vùng nông thôn khắp nước ta, nhiều nhất ở các
tỉnh miền Bắc và miền Trung; thường gặp trên các

ruộng khô, bờ ruộng, ven đường ; Còn thấy mọc ở
Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Philippines và một số
nước khác.
Để làm thuốc, thường hái lá hoặc toàn cây, tốt nhất
vào lúc trước khi cây ra hoa hoặc tuy đã có hoa
nhưng chưa nở. Dùng tươi tốt nhất, nhưng cũng có
thể phơi khô để dùng dần.

Để làm thuốc, thường hái lá hoặc toàn cây, tốt nhất
vào lúc trước khi cây ra hoa hoặc tuy đã có hoa
nhưng chưa nở.
Lưu ý: Ngoài loài mô tả ở trên, trên thực tế rau khúc
còn có nhiều biến loài (biến chủng). Cùng một thời
gian với loài khúc nếp nói trên, mùa xuân còn hay
gặp loài “rau khúc tẻ”, còn có tên “rau khúc vàng”;
Tên khoa học là Gnaphalium luleo -album L., cũng
thuộc họ Cúc.
Rau khúc tẻ cũng là cây mọc hàng năm, nhưng thân
thường mọc đơn, cao 30-70cm, màu trắng, phủ lông
như bông. Lá mọc so le, nguyên, hình trái xoan .
Tới cuối xuân, đầu hè, lại xuất hiện một loài rau khúc
khác, có tên là “rau khúc nhiều thân”; tên khoa học
là Gnaphalium polycaulon Pers.; cũng thuộc họ Cúc.
Ngoài ra, tại một số địa phương (bãi cát trên bờ sông
ở ngoại thành Hà Nội, ở Sa Pa (tỉnh Lào Cai) ), từ
mùa hè còn có thể xuất hiện một loài khúc khác, gọi
là = “rau khúc dưới trắng”, sách thuốc Trung Quốc
gọi đó là “rau khúc mùa thu (thu thử khúc thảo; Tên
khoa học là Gnaphalium hypoleucum DC.; họ Cúc).
Rau khúc có nhiều biến loài, nhưng đều được sử làm

thuốc với cùng tác dụng. Theo Đông y, rau khúc có
vị ngọt, tính bình; Vào 3 kinh Phế, Tỳ và Vị. Có công
dụng khư phong tán hàn, hóa đàm chỉ khái, lợi thấp,
giải độc.
Dùng chữa cảm mạo phong hàn, ho nhiều đờm, khí
suyễn, phúc tả, bạch đới, tỳ hư thủy thũng, còn dùng
chữa nhiễm độc đậu tằm, phong thấp đau nhức;
Dùng ngoài chữa lở ngứa ngoài da, phong chẩn mẩn
tịt, mụn nhọt sưng đau. Trong dân gian, ngoài công
dụng làm bánh khúc ăn, thường dùng lá khúc để chữa
ho, viêm chi phế quản.
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, trong rau khúc
có chứa nhiều hợp chất thiên nhiên có lợi đối với sức
khỏe. Toàn cây còn chứa tinh dầu (khoảng 0,05%),
nên dùng cây tươi là tốt nhất; Để bảo quản tinh dầu,
khi sắc nên để nước sôi rồi mới cho rau vào, sôi lại
nhắc ra và dùng ngay.
- Liều dùng: Ngày dùng 10-16g dưới dạng thuốc sắc
hay thuốc hãm. Có thể thái nhỏ cho vào một ít đường,
hấp trên nồi cơm cho uống.
Một số bài thuốc dùng rau khúc
- Chữa cảm lạnh phát sốt, ho: Dùng toàn cây rau
khúc khô 15-20g (hoặc 30-40g tươi), sắc nước uống
trong ngày; Có thể thêm tía tô, kinh giới, mỗi thứ 9g,
cùng sắc uống.
- Chữa cảm nắng, phát sốt, ho: Dùng rau khúc khô
30g, thanh cao 15g, bạc hà 9g, sắc nước uống trong
ngày.
- Chữa viêm họng, hen suyễn nghẹt đờm: Dùng độc
vị rau khúc khô 30g sắc uống; Hoặc thêm gừng, hành

mỗi vị 10g cùng sắc uống. Còn có thể dùng: Rau
khúc khô 30g, ma hoàng 6g, khoản đông hoa, hạnh
nhân, bạch tiền, mỗi thứ 9g, sắc uống.
- Chữa ho nhiều đờm: Dùng rau khúc khô 15-20g,
đường phèn 15-20g, sắc nước uống trong ngày.
- Chữa viêm khí quản mạn tính: Một bệnh viện ở
Trung Quốc đã thử nghiệm sử dụng 50g rau khúc
khô, sắc lấy nước đặc, chia thành 3 lần uống trong
ngày, liên tục 10 ngày (một liệu trình).
Điều trị 165 ca viêm khí quản mạn tính đạt kết qủa
tốt: sau 2 liệu trình tỷ lệ khỏi bệnh đạt 81%.
Một bệnh viện khác thử nghiệm sử dụng rau khúc
phối hợp với xa tiền thảo và liên kiều chữa viêm khí
quản mạn cũng đạt kết quả tốt (Theo “Trung dược đại
từ điển”).
- Chữa cao huyết áp: Dùng rau khúc khô 12g, câu
đằng 9g, tang ký sinh 9g, sắc nước uống trong ngày.
- Chữa đầy bụng, tiêu chảy: Dùng toàn cây rau khúc
khô 30-60g, kê nội kim (màng mề gà) 1 cái, sắc nước
uống trong ngày.
- Chữa khí hư bạch đới ở phụ nữ: Dùng rau khúc
15g, phượng vĩ thảo (cỏ seo gà) 15g, đăng tâm thảo
(cỏ bấc đèn)15g, cỏ xước 12g sắc nước uống trong
ngày; Lưu ý: Không dùng thuốc trong lúc đang hành
kinh.
- Chữa đau nhức do thống phong (Gut - Guoty
Arthiritis): Dùng lá và cành non cây rau khúc, rửa
sạch, giã nát đắp vào chỗ đau sưng, băng cố định lại;
Có tác dụng giảm đau khá tốt.
- Chữa gân cốt sưng đau, chân và đầu gối sưng

thũng, đòn ngã tổn thương: Dùng toàn cây rau khúc
khô 30-60g, sắc nước uống trong ngày.
- Chữa ngộ độc đậu tằm (fabism): Dùng rau khúc
khô 60g, xa tiền thảo 30g, phượng vĩ thảo (cỏ seo gà)
30g, nhân trần 15g. Nước 1.200ml, sắc cạn còn
800ml, hòa thêm đường vào uống thay trà trong ngày.
- Chữa vết thương sưng tấy, vết thương không liền
miệng: Dùng toàn cây rau khúc khô 30g, sắc nước
uống trong ngày; đồng thời giã lá rau khúc tươi trộn
với cơm giã nát đắp lên vết thương.
- Chữa nhọt đầu đinh mới mọc: Dùng lá rau khúc
tươi trộn với cơm nguội và vài hạt muối đắp lên nhọt.

×