Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tình hình triển khai nghiệp vụ bào hiểm XNK vận chuyển bằng đường biển part5 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.16 KB, 11 trang )

Xuất phát từ những nguyên tắc này, quy trình giám định của Công ty
được giám định như sau:
a. Nhận yêu cầu giám định:
Khi phát hiện có tổn thất hoặc nghi ngờ có tổn thất người được bảo
hiểm phải gửi ngay yêu cầu giám định đến Bảo Minh Hà Nội, yêu cầu ban
đầu có thể bằng điện thoại nhưng sau đó phải bổ sung ngay bằng giấy yêu cầu
chính thức có thể lưu trong tập hồ sơ giám định.
Tiếp theo, cán bộ giám định sẽ đề nghị có sự phối hợp, giúp đỡ của
người yêu cầu giám định trong suốt quá trình giám định, đồng thời yêu cầu họ
cung cấp các giấy tờ cần thiết sau:
+ Hợp đồng bảo hiểm
+ Vận đơn đường biển
+ Hoá đơn thương mại
+ Quy cách đóng gói
+ Các chứng từ giao nhận hàng hoá giữa tàu và cảng, COR (biên bản
hư hỏng đổ vỡ), ROROC (chứng từ kết toán nhận hàng với tàu) hoặc biên bản
giao nhận của người chuyên chở và các chứng từ liên quan để chứng minh tổn
thất nếu giám định viên yêu cầu.
b. Tiến hành thực hiện việc giám định.
Công việc này được thực hiện tại nơi xảy ra tai nạn. Cán bộ giám định
của Công ty sẽ thực hiện các công việc sau:
+ Giám định bên ngoài kiện hàng, so sánh đối chiếu với sự miêu tả
trong chứng từ vận chuyển.
+ Giám định bên trong kiện hàng.
+ Xác định mức độ tổn thất.
Trong quá trình giám định, cán bộ giám định luôn chú ý rõ số lượng
hàng bị thiếu, số lượng từng loại bị hư hỏng và mức độ hư hỏng. Đồng thời
ước tính các khoản chi phí khắc phục, sửa chữa, tỷ lệ giảm giá và giá trị còn
lại của hàng hoá để có thể xác định mức độ tổn thất hợp lý.
+ Xác định nguyên nhân tổn thất.
Để có thể tìm ra nguyên nhân, đòi hỏi các cán bộ giám định phải có khả


năng quan sát và phán đoán hết sức nhạy bén cũng như trình độ chuyên môn
cao, phải hiểu rõ được đặc tính của hàng hoá bảo hiểm, đặc điểm của tuyến
hành trình, điều kiện khí hậu thuỷ văn, trạng thái kỹ thuật của con tàu, ý thức
và trình độ của sỹ quan thuỷ thủ, thuyền viên.
Chẳng hạn đối với tổn thất xảy ra cho lô hàng gạo chuyên chở trên tàu
Wujiang của Công ty Vinafood xuất sang Irắc, vận đơn MOLV621541300 và
đã mua bảo hiểm tại Bảo Minh Hà Nội. Sau khi xảy ra tổn thất, chi nhánh đã
đưa giám định viên sang phối hợp với phía Irắc giám định tại cảng Um-
Quaser.
Các giám định viên phát hiện ra rằng trong 5000 tấn gạo xuất khẩu có
1.200 tấn bị ướt và biến chất. Nguyên nhân là do vật liệu đệm lót bằng tre còn
tươi, mặt khác giữa các bao gạo không được phủ lớp giấy nâu sạch để hút ẩm,
đồng thời trong số các bao bì hỏng, đa phần được xếp cạnh các bó thép để
trần - đây là loại hàng hay ra mồ hôi. Ngoài ra hầm thông gió kém làm cho
hơi nước thoát ra từ hàng khó bay ra ngoài. Với đặc tính dễ hút ẩm và khi bị
ẩm thường ngả sang màu vàng, biến chất, nên vì thế gạo đã bị ẩm ướt và
không còn nguyên giá trị như ban đầu:
+ Phân định dạng tổn thất: Hàng hoá vận chuyển bằng đường biển có
thể gặp phải các tổn thất như: mất mát hao hụt, hỏng do nước ngấm, bị cong,
bẹp, méo, xước, vỡ gẫy, bao kiện bị mốc rách, hàng bị ô nhiễm mùi vị hoặc bị
lấm bẩn, bị mốc, ôi thiu, bị cháy, han rỉ…
+ Mỗi dạng tổn thất có thể phát sinh do nhiều nguyên nhân có xuất xứ
khác nhau, vì thế đã tìm ra nguyên nhân gây ra tổn thất thì cần phải xác định
rõ cả nguồn gốc phát sinh ra nguyên nhân.
Chẳng hạn khi xác định nguyên nhân tổn thất là do cháy thì cần phải
phân tích xem cháy là do đặc tính của hàng hoá tự bốc cháy hay do hành vi sơ
suất của thuyền viên. Hoặc khi xác định nguyên nhân tổn thất là do va đạp thì
phải xem xét rằng va đập là do hàng hoá bị rơi từ trên cao xuống, bị đè nặng,
chèn ép hay do sóng lớn gây ra chấn động đổ vỡ…
c. Lập biên bản giám định.

Sau khi hoàn tất việc giám định, giám định viên chọn lọc các chi tiết cơ
bản để phản ánh toàn bộ những gì đã chứng kiến tại hiện trường vào một văn
bản gọi là "biên bản giám định". Đây là kết quả của quá trình giám định và
cũng là cơ sở pháp lý để khiếu nại người có trách nhiệm với vụ tổn thất đó.
Nội dung của biên bản giám định phải đảm bảo các yêu cầu trung thực,
chính xác, rõ ràng, cụ thể, các số liệu trên biên bản phải phù hợp với thực tế
tổn thất và thống nhất với các tài liệu khác liên quan đến chuyến hành trình.
Điểm quan trọng nhất, cũng là nội dung chính của biên bản giám định là phải
ghi rõ mức độ và nguyên nhân gây ra tổn thất đó.
d. Cung cấp biên bản giám định và thu phí giám định.
Sau khi lên biên bản giám định, cán bộ giám định của Bảo Minh sẽ
cung cấp cho người hoặc tổ chức yêu cầu giám định. Việc cấp thêm biên bản
cho bất cứ người nào khác phải được sự đồng ý của người yêu cầu giám định
bằng văn bản và phải tính thêm phí nếu cần.
Đối với các chi phí và công lao động đã thực hiện trong quá trình giám
định, theo yêu cầu của người nhận hàng, giám định viên có thể ghi thêm vào
biên bản giám định và phải ghi thêm vào chứng từ, hoá đơn đầy đủ về các chi
phí đó.
Về nguyên tắc, chi phí giám định chỉ được thu trực tiếp từ người yêu
cầu giám định nếu lô hàng không tham gia. Nếu bảo hiểm tại Bảo Minh thì
phí giám định được tính vào số tiền hàng bồi thường hoặc Bảo Minh tự chịu
trong trường hợp tổn thất không thuộc trách nhiệm của mình.
Ngoài ra trong trường hợp Bảo Minh Hà Nội giám định hộ các đơn vị
khác trong công ty thì phí giám định được tính vào số tiền bồi thường, số tiền
này đơn vị nhờ giám định sẽ phải trả cho Bảo Minh Hà Nội.
Quy trình trên không chỉ được áp dụng ở Công ty Bảo Minh Hà Nội mà
còn ở tất cả các đơn vị khác trong Tổng công ty. Trong một số trường hợp,
tuỳ theo điều kiện đã thoả thuận trong đơn bảo hiểm thì khi xảy ra tổn thất,
Bảo Minh Hà Nội có thể phối hợp với một tổ chức giám định khác đã được
chỉ định trong đơn để cùng tham gia giám định. Do giám định là một công

việc rất khó khăn phức tạp, đòi hỏi giám định viên phải có trình độ kỹ thuật
nghiệp vụ cao, am hiểu sâu sắc về nhiều lĩnh vực như vật lý, hoá học, sinh
học, tâm lý học, cơ khí nên để đảm bảo tính chính xác và công bằng trong
khâu giám định, hiện nay công ty thường thuê các chuyên viên giám định về
tổn thất hàng hoá có uy tín như: Công ty giám định nhà nước (Vinacontrol)
hay Công ty liên doanh giám định là Công ty Davidcontrol và FCC. Căn cứ
vào biên bản mà các chuyên gia cung cấp, Công ty sẽ lên biên bản chính thức
và từ đó làm căn cứ giải quyết bồi thường cho những hàng hoá được bảo
hiểm.
Tình hình chi cho giám định trong mối quan hệ với chi bồi thường của
Công ty trong thời gian qua như sau:
Bảng 3: Chi giám định và chi bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Năm
Chi phí giám định
ngoài trách nhiệm
bồi thường (triệu
đồng)
Chi phí giám
định thuộc
trách nhiệm bồi
thường
(triệu đồng)
Thực chi
bồi thường

(triệu
đồng)
Tổng chi bồi
thường

(triệu đồng)
1 2 3 4 5 = 3 + 4
1999 39,50 201,61 4582,50 4784,11
2000 41,50 336,25 4811,63 5147,87
2001 45,24 488,75 5195,56 5685,31
2002 49,22 520,24 5875,75 6395,99
2003 53,4 660,78 6262,67 6923,45
2004 58,02 800,05 6583,72 7383,77
(Nguồn: Số liệu tổng kết của Bảo Minh Hà Nội)
Từ số liệu bảng 3 cho thấy,chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi
thường tăng qua các năm cả số tuyệt đối và tỷ trọng của nó so với thực chi bồi
thường. Cụ thể về số tuyệt đối thì chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi
thường năm 2000 tăng 134,63 triệu so với năm 1999, năm 2001 tăng 152,51
triệu so với năm 2000, năm 2002 tăng 31,49 triệu so với năm 2001 và năm
2003 tăng 140,54 triệu so với năm 2002, năm 2004 tăng 139,27 triệu so với
năm 2003. Tỷ số giữa chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường và thực
chi bồi thường của các năm là: năm 1999 bằng 4,39%, năm 2000 là 6,98%,
năm 2001 là 9,40%, năm 2002 là 8,85%, năm 2003 là 10,55%, năm 2004 là
12,15%. Sở dĩ tỉ số này tăng từ năm 1999 đến năm 2004 là vì trước đây có
một số vụ tự nhân viên của công ty thực hiện, do đó tính chất ngày một phức
tạp của tổn thất đòi hỏi phải tốn nhiều thời gian, tiền của hơn, phải bỏ thêm
chi phí để thuê các chuyên gia giám định tổn thất nên chi phí thuộc bồi
thường tăng lên. Đối với các khoản chi ngoài trách nhiệm bồi thường, đây là
chi cho các vụ tổn thất có nguyên nhân là các rủi ro loại trừ. Ta thấy mức tăng
của khoản chi này qua các năm 2000 và 2001 là không đáng kể và có sự giảm
đi vào năm 2002 và 2003. Điều này chứng tỏ số vụ tổn thất ngoài trách nhiệm
Bảo Minh đã dần ổn định.
Do thực tế ở Công ty, số tiền giám định các vụ tổn thất thuộc trách
nhiệm bồi thường được tính gộp vào tiền bồi thường nên có sự phân biệt giữa
chi phí giám định thuộc trách nhiệm bồi thường và chi phí giám định không

thuộc trách nhiệm bồi thường cũng như giữa chi phí thực bồi thường và tổng
chi bồi thường.
2.3. Công tác giải quyết khiếu nại bồi thường.
Trên tinh thần nguyên tắc tăng cường quyền hạn và ý thức trách nhiệm
của công ty khu vực cũng như nhằm phục vụ khách hàng một cách nhanh
chóng và hiệu quả nhất, tổng công ty Bảo Minh đã quy định phân cấp bồi
thường cho các công ty. Bảo Minh Hà Nội là công ty cấp I và cũng là công ty
lớn nhất miền Bắc nên được Tổng công ty quy định hạn mức phân cấp bồi
thường đối với nghiệp vụ này là 15.000 USD/vụ (tương đương VNĐ). Trong
trường hợp có những hồ sơ vượt phân cấp, Công ty phải thu nhập đầy đủ hồ
sơ bồi thường theo quy định khẩn trương làm báo cáo có ý kiến của đơn vị
gửi về Tổng công ty để xem xét bồi thường.
Quy trình giải quyết bồi thường ở Bảo Minh Hà Nội cũng được tiến
hành theo các bước sau:
a. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại:
Bộ hồ sơ khiếu nại đối với tổn thất hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển có:
+ Hợp đồng bảo hiểm và giấy sửa đổi bổ sung (nếu có)
+ Vận đơn đường biển (bản gốc)
+ Phiếu đóng gói (bản gốc)
+ Biên bản giám định (bản gốc)
+ Các chứng từ giao nhận hàng của cảng hoặc cơ quan chức năng.
+ Thông báo tổn thất
+ Hợp đồng vận chuyển
+ Hoá đơn biên lai các chi phí khác
+ Các chứng từ liên quan (nếu tổn thất phát sinh do lỗi của người thứ
ba).
b. Kiểm tra chứng từ:
Khi tiếp nhận, cán bộ làm công tác giải quyết bồi thường của chi nhánh
sẽ kiểm tra cẩn thận tính đầy đủ và hợp pháp của bộ chứng từ. Nếu có thiếu

sót, nhầm lẫn thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung hoặc hiệu đính lại.
c. Xác minh phí:
Kiểm tra xem người được bảo hiểm có thực hiện và thực hiện đúng
nghĩa vụ đóng phí của mình không, đây là một trong các biện pháp ngăn ngừa
tình trạng gian lận trong bảo hiểm có ý đồ trục lợi cho riêng mình. Nói chung
đối với mọi trường hợp (trừ khi có thoả thuận khác bằng văn bản) thì việc
chưa đóng phí bảo hiểm theo hợp đồng vào thời điểm phát sinh khiếu nại đều
đồng nghĩa với việc tổn thất nằm ngoài phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm.
d. Giám định tổn thất:
Lúc này cán bộ làm công tác bồi thường sẽ nghiên cứu những vấn đề
sau:
+ Người khiếu nại có quyền lợi bảo hiểm không ?
+ Tổn thất xảy ra có trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm
không ?
+ Tổn thất có phải do những rủi ro loại trừ gây ra không ?
+ Tổn thất có được bảo hiểm theo các điều kiện bảo hiểm như đã thoả
thuận không ?
Chỉ cần không đáp ứng được một trong các câu hỏi trên thì có nghĩa là
nó đã nằm ngoài phạm vi trách nhiệm bảo hiểm. Khi đó chi nhánh sẽ lập công
văn gửi người khiếu nại (bằng fax hoặc gửi qua bưu điện) để từ chối việc bồi
thường tổn thất mà anh ta yêu cầu. Trong công văn phải nêu tóm tắt sự việc
và lý do khước từ trách nhiệm bảo hiểm sao cho có tình có lý nhất.
Nếu tổn thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm thì cán bộ xét bồi
thường lúc này phải tính đến số tiền dự tính bồi thường, rồi làm tờ trình để
trình lãnh đạo theo phân cấp bồi thường xem xét và cho ý kiến về việc bồi
thường.
Cách tính số tiền dự tính bồi thường của công ty cũng tuân theo phương
pháp chung như đã giới thiệu ở Chương II.
e. Thanh toán bồi thường.
Giai đoạn cuối cùng trong quá trình giải quyết bồi thường là việc thanh

toán bồi thường. Sau khi lãnh đạo xem xét và đồng ý phê duyệt bồi thường,
cán bộ xét bồi thường phải gửi thông báo số tiền bồi thường để lấy ý kiến
chấp nhận từ phía khách hàng đồng thời chuẩn bị hồ sơ để đòi người nhận tái
bảo hiểm hay đòi người thứ ba nếu có. Khi nhận được ý kiến chấp nhận của
khách hàng số tiền bồi thường sẽ được chuyển khoản theo số tài khoản của
khách hàng.
Bên cạnh hoạt động khai thác, thu phí thì xét giải quyết bồi thường
cũng là một khâu then chốt tác động đến số lãi thực thu của chi nhánh nói
chung và trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển nói riêng, nếu hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại bồi
thường nâng lên thì góp phần giảm khoản chi, từ đó tăng lợi nhuận và cũng là
hiệu quả kinh doanh.
Theo số liệu thống kê của Bộ Tài chính về tình hình tổn thất lớn hàng
hoá từ 1995 đến 1999, trong 27 vụ tổn thất, Bảo Minh có 12 vụ chiếm 44,4%,
tổng số tiền bồi thường là 18.974.228 USD, trong đó Bảo Minh đã bồi thường
8.165.183 USD, bằng 43% tổng số tiền bồi thường, cao hơn rất nhiều so với
Bảo Việt là 7.092.955 USD, PIJICO là 587.072 USD, Bảo Long là 1.973.867
USD và PVIC là 355.140 USD.
Để hiểu rõ hơn kết quả chi bồi thường tổn thất trong bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Bảo Minh Hà Nội, ta hãy
nghiên cứu tình hình thực hiện công tác này qua bảng sau:
Bảng 4: Tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
Năm Tổng thu phí (triệu đồng)
Chi bồi thường
(triệu đồng)
Tỷ lệ bồi thường
(%)
1999 8.041,08 4.582,50 56,98
2000 9.650,16 4.811,63 49,86

2001 11.773,2 5.196,56 44,13
2002 13.812,3 5.875,75 42,54
2003 15.011,2 6.262,67 41,72
2004 17.021,2 6.583,72 38,67
(Nguồn: Số liệu thống kê của Bảo Minh Hà Nội)
Qua số liệu trên cho thấy tỉ lệ bồi thường có xu hướng giảm qua các
năm: 56,98% năm 1999 xuống còn 38,67% năm 2004, nhưng số tiền thực chi
bồi thường lại tăng lên qua các năm. Tốc độ tăng bồi thường nhỏ hơn tốc độ
tăng của doanh thu phí bảo hiểm và kim ngạch bảo hiểm. Điều này không
hàm ý rằng việc bồi thường của Công ty Bảo Minh Hà Nội là dây dưa nợ
đọng, ở đây nó nói lên chất lượng của công tác đề phòng hạn chế tổn thất
ngày càng tốt, đồng thời các công đoạn từ khai thác, giám định bồi thường
được nâng cao, nó đảm bảo hợp lý quyền lợi của người được bảo hiểm, nâng
cao uy tín cho Công ty cũng như Tổng Công ty và số lượng khách hàng đến
với Tổng Công ty ngày càng nhiều.
Nếu chỉ nhìn vào cột chi bồi thường thì thấy chi bồi thường tổn thất của
Tổng Công ty tăng lên nhưng khi xem phần kim ngạch bảo hiểm thì thấy ngay
việc tăng tổn thất của Công ty là do sự tăng lên của kim ngạch bảo hiểm. Từ
đây cho thấy hiệu quả của công tác giám định bồi thường được nâng cao lên
đảm bảo quyền hợp lý của khách hàng, nâng cao uy tín của Công ty cũng như
của Tổng Công ty.
3. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội.

×