Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tình hình triển khai nghiệp vụ bào hiểm XNK vận chuyển bằng đường biển part3 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.69 KB, 11 trang )

Sau khi lập được biên bản giám định, người bảo hiểm tiến hành giám
định bồi thường. Đây là công đoạn rất quan trọng và nhạy cảm vì nó gắn liền
với lợi ích của cả người được bảo hiểm và người bảo hiểm vì vậy việc giám
định bồi thường phải đáp ứng được một số nguyên tắc sau.
- Nhanh chóng, kịp thời: để giúp khách hàng nhanh chóng khôi phục
hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả nhất.
- Kết quả chính xác: Phải tuân theo những điều kiện, điều khoản của
hợp đồng bảo hiểm và thực tế thiệt hại.
- Công bằng, trung thực: Phải dựa trên tình huống tai nạn, quan hệ hợp
tác mà giám định bồi thường linh hoạt, thoả mãn những yêu cầu hợp lý của
khách hàng.
Ngoài ra, trong quá trình giám định cần đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Tờ trình bồi thường phải thực hiện đầy đủ chi tiết về khiếu nại,
nguyên nhân phạm vi tổn thất, số tiền khiếu nại và số tiền bồi thường cùng ý
kiến nhận xét của cán bộ thường về toàn bộ khiếu nại.
- Trong trường hợp mỗi Công ty tính toán tổn thất đánh giá khiếu nại
thì hai biên bản giám định của Công ty tính toán tổn thất sẽ là cơ sở cho việc
giải quyết bồi thường.
- Nếu số tiền bồi thường vượt quá phân cấp, phải thông báo và xin ý
kiến chỉ đạo của Tổng công ty trước khi giải quyết bồi thường.




CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ
XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI
CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI
1. Vài nét về Tổng công ty Bảo Minh và Công ty Bảo Minh Hà Nội.
Có thể nói lịch sử phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu ở Việt Nam được gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngành bảo


hiểm nước ta. Kể từ khi bảo hiểm Việt Nam ra đời cho đến nay, nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu luôn là một loại hình bảo hiểm chủ yếu và
chiếm tỉ trọng cao trong tổng phí bảo hiểm toàn thị trường. Bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam có thể được nhìn nhận theo hai giai đoạn phát
triển.
Thời kỳ bảo hiểm hoạt động theo cơ chế độc quyền Nhà nước. Giai đoạn
này chỉ có một tổ chức bảo hiểm duy nhất là bảo hiểm hoạt động phục vụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu theo nghị định thư. Quy mô và phạm vi bảo
hiểm của thời kỳ này còn rất nhiều hạn chế, hoạt động của thị trường không
có sự cạnh tranh.
Thời kỳ bảo hiểm hoạt động trong nền kinh tế thị trường: Vào những
năm cuối thập niên 80, với chính sách kinh tế mở, cùng với nhịp độ phát triển
của nền kinh tế, ngành bảo hiểm đã có những bước phát triển đáng kể. Đứng
trước yêu cầu đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn
định và nhằm khai thác tốt hơn tiềm năng bảo hiểm trong nước để đầu tư lại
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghị định 100/CP
ngày 18/12/1993 của Chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được
ban hành. Sau khi Nghị định này ra đời, hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo
hướng thị trường mở trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đã bắt đầu phát triển,
nhiều công ty bảo hiểm mới ra đời trên thị trường đã có sự cạnh tranh gay gắt
giữa các công ty bảo hiểm để giành khách hàng và tăng doanh thu phí. Nhiều
vấn đề mới nảy sinh và bất cập trong thời kỳ này đã ảnh hưởng đến hoạt động
của các công ty bảo hiểm. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá
nhân và tổ chức tham gia bảo hiểm, đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm, góp
phần thúc đẩy và duy trì sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội, Luật
kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội thông qua ngày 09/12/2000, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/4/2001. Sau khi Luật này được ban hành, Chính phủ
và Bộ Tài chính đã ban hành những văn bản thi hành Luật nhằm phát huy tối
đa hiệu quả của Luật kinh doanh bảo hiểm.

Bảo Minh là công ty bảo hiểm gốc của Nhà nước đầu tiên được thành lập
sau Nghị định 100/CP. Ra đời trên cơ sở là một chi nhánh của Bảo Việt tại
thành phố Hồ Chí Minh, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là
Bảo Minh) đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995, được phép
hoạt động trên phạm vi cả nước và quốc tế, đảm nhận kinh doanh mọi loại
hình nghiệp vụ bảo hiểm.
Từ 1995 đến nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam có nhiều thay đổi khi có
chính sách mở cửa hoàn toàn, đặc biệt là thị trường bảo hiểm. Thách thức lớn
đối với các công ty bảo hiểm trong nước là phải có đủ khả năng cạnh tranh
quốc tế. Nhằm mục tiêu tạo ra một tổng công ty bảo hiểm phi nhân thọ mạnh
nhất thị trường có đủ khả năng đó, Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh
(Bảo Minh) đã chính thức chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước thành Tổng
Công ty Cổ phần Bảo Minh theo Giấy phép thành lập và hoạt động số 27
GP/KDBH ngày 08/9/2004 của Bộ Tài chính. Đây là một công ty cổ phần
gồm 11 cổ đông sáng lập gồm các Tổng Công ty lớn của Nhà nước như: Tổng
Công ty Hàng không, Tổng Công ty Sông Đà, Tổng Công ty Hàng hải Việt
Nam, Tổng Công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, Tổng Công ty Bưu
chính viễn thông Việt Nam .v.v Tiếp đó, Hội đồng Quản trị Tổng Công ty
Cổ phần Bảo Minh đã ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty Bảo
Minh Hà Nội (gọi tắt là Bảo Minh Hà Nội) là công ty thành viên của Tổng
Công ty Cổ phần Bảo Minh (gọi tắt là Tổng Công ty) theo số 1063/2004-
BM/HĐQT ngày 01/10/2004.
Công ty Bảo Minh Hà Nội trong quá trình hoạt động đã đóng góp một
phần không nhỏ vào sự phát triển của Tổng Công ty. Hiệu quả hoạt động của
Công ty được thể hiện bằng sự đóng góp doanh thu phí vào tổng doanh thu
phí của toàn Tổng Công ty là 20 đến 21%. Hiện nay với hơn 60 cán bộ công
nhân viên, cơ cấu tổ chức của Công ty được chia thành 7 phòng ban, 4 phòng
đại diện và đảm nhận 21 loại hình nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau, trong đó có
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu là nghiệp vụ truyền thống

nhưng vẫn được Công ty quan tâm phát triển. Mức độ cạnh tranh của nghiệp
vụ này tuy có gay gắt nhưng nhìn chung có phần bình ổn hơn so với các
doanh nghiệp khác vì hầu hết các mối quan hệ với khách hàng đã được thiết
lập trong thời gian trước đây.
Về cơ cấu tổ chức của Công ty Bảo Minh tại Hà Nội

Giám đốc
Phó Giám đốc Phó Giám đốc
Phòng hàng hải,
hàng không
Phòng quản lý
đại lý , CNV
Phòng phi
hàng hải
Phòng đầu tư,
kỹ thuật
Phòng kế toán
tài vụ
Phòng tổng hợp,
tổ chức cán bộ
Phòng bảo hiểm
khu vực 6

Phòng bảo hiểm
khu vực 5
Phòng bảo hiểm
khu vực 7

Phòng bảo hiểm
khu vực 8


Đứng đầu Công ty là Giám đốc (do Tổng Giám đốc bổ nhiệm), chịu
trách nhiệm toàn bộ mọi hoạt động kinh doanh, tổ chức quản lý. Hai phó giám
đốc quản lý từng phần nghiệp vụ của các phòng ban, giúp đỡ Giám đốc giải
quyết các vụ việc liên quan từng phần nghiệp vụ.
1. Phòng Hàng hải bảo hiểm hàng vận chuyển nội địa, hàng hoá xuất
nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, tàu sông, tàu cá…
- Hướng dẫn và chỉ đạo khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải nói
trên cho các phòng thuộc Tổng Công ty theo phân cấp của Tổng Giám đốc.
- Kiểm tra quản lý toàn bộ đơn bảo hiểm hàng hải do tất cả các phòng,
cấp gửi đến.
- Tổng hợp, báo cáo tổng kết công tác bảo hiểm hàng hải toàn Tổng
Công ty hàng năm.
- Thông qua công tác quản lý, chỉ đạo, kiểm tra, phát hiện những yếu
kém, sơ hở, vi phạm trong kinh doanh, kiến nghị với Giám đốc biện pháp xử
lý, cải tiến quản lý doanh nghiệp.
- Thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, quản lý rủi ro bảo
hiểm hàng hải.
- Tham mưu cho Giám đốc xây dựng kế hoạch doanh thu các nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hải.
- Phối hợp với các phòng kinh doanh để hợp tác khai thác bảo hiểm
theo Quy chế hợp tác, chống cạnh tranh nội bộ của Giám đốc Công ty ban
hành.
2. Phòng đầu tư kỹ thuật bảo hiểm cho các chương trình xây dựng, đầu
tư của nước ngoài vào Việt Nam, bao gồm cháy, nổ, mất và hư hại tài sản…
3. Phòng tổng hợp chịu trách nhiệm hành chính tổng hợp, tổ chức cán
bộ.
4. Phòng kế hoạch quản lý nguồn thu chi của Chi nhánh.
5. Phòng đại lý, cộng tác viên quản lý tất cả các đại lý, cộng tác viên
của Công ty tại các địa bàn, các tỉnh và các địa phương. Các văn phòng khai

thác khu vực chịu trách nhiệm khai thác các nghiệp vụ tại địa bàn các quận
của thành phố Hà Nội.
6. Phòng bảo hiểm phi hàng hải: quản lý và khai thác bảo hiểm xe cơ
giới, bảo hiểm tai nạn con người.
7. Phòng bảo hiểm hàng không bảo hiểm cho hành khách và hàng hóa
vận chuyển bằng đường không và của hãng hàng không Quốc gia Việt Nam
và các công ty bay dịch vụ.
8. Phòng giám định bồi thường bảo hiểm xe cơ giới: thực hiện giám
định các tổn thất, đánh giá xác định các thiệt hại từ đó quyết định mức bồi
thường tổn thất trong bảo hiểm xe cơ giới.
9. Các phòng bảo hiểm khu vực: đại diện cho Công ty bảo hiểm tại địa
phương, kinh doanh bảo hiểm theo phân công, phân cấp của Giám đốc Công
ty.
Tổ chức thực hiện và quản lý toàn diện về mặt hoạt động của Phòng
bảo hiểm khu vực về tổ chức cán bộ nghiệp vụ, tài chính kế toán, quản trị,
kinh doanh. Theo quy định của Tổng Công ty, quy chế và phân cấp của Giám
đốc Công ty đối với các phòng bảo hiểm các khu vực.
Nhằm tăng cường lợi thế cạnh tranh, giữ vững thị phần đáp ứng nhanh
chóng nhu cầu bảo hiểm của khách hàng, Bảo Minh tiếp tục phát triển mạng
lưới đại lý cộng tác viên song song với việc củng cố và hoàn thiện các chi
nhánh, nâng cấp năng suất lao động và trình độ quản lý, đồng thời học hỏi và
phát triển kỹ thuật bảo hiểm nước ngoài. Mục đích cơ bản của Bảo Minh
trong thời gian tới là cố gắng thoát khỏi trì trệ, củng cố lực lượng để phù hợp
với sự chuyển biến của thị trường bảo hiểm trong nước; để thực hiện được
mục đích đó, Bảo Minh đã đưa ra các biện pháp trong thời gian tới là:
* Cải tiến xây dựng theo dõi thực hiện kế hoạch kinh doanh.
- Kế hoạch kinh doanh phải xây dựng trên cơ sở phân tích thị trường,
đối thủ cạnh tranh và tự nhận định về bản thân.
- Xây dựng hệ thống đòn bẩy kinh tế, cải tiến phương pháp phân phối
tiền lương, tiền thưởng, định mức chi phí…

- Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị, nhân viên.
* Củng cố hệ thống các công ty và mở rộng phát triển hệ thống đại lý
bảo hiểm, thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị hữu quan.
- Nâng cao trình độ các giám đốc, phó giám đốc công ty, trình độ kế
toán viên và cán bộ nghiệp vụ.
- Hoàn chỉnh chương trình cơ sở dữ liệu thống kê CRACL-COSIS.
- Củng cố và mở rộng tổng đại lý ở các tỉnh.
- Thiết lập mối quan hệ bằng hợp đồng thoả thuận quan hệ hợp tác với
các cơ quan hữu quan như các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo
hiểm, các công ty giám định, luật sư…
* Đẩy mạnh công tác đầu tư vốn.
- Quản lý chặt chẽ vốn đầu tư dài hạn: các công ty liên doanh cổ phần,
trái phiếu… theo lãi suất từ các công ty này.
- Tập trung vốn kịp thời cho các khoản đầu tư ngắn hạn (chủ yếu là gửi
ngân hàng có thời hạn, mua trái phiếu ngắn hạn…).
- Tổ chức tốt hệ thống bảo hiểm nhân thọ cho liên doanh Bảo Minh -
CMG.
2. Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển ở Công ty Bảo Minh Hà Nội.
2.1. Công tác khai thác bảo hiểm.
Công tác khai thác là một khâu rất quan trọng trong các doanh nghiệp,
các công ty, khai thác được coi như là đầu vào cho hoạt động sản xuất tạo ra
lợi thế thương mại cuối cùng cho doanh nghiệp, nó quyết định đến sự sống
còn của công ty. Doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh dịch vụ tài chính không
có hoạt động sản xuất cho nên họ chủ yếu tập trung vào khai thác thị trường.
Nếu công ty khai thác tốt tức là bán được nhiều hợp đồng bảo hiểm, mang lại
doanh thu lớn sẽ là cơ sở để tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị phần, nâng cao vị
thế của mình trên thị trường bảo hiểm. Chính vì tính chất quan trọng của khâu
khai thác mà hầu hết các công ty bảo hiểm phải lập ra các chiến lược khai
thác. Công việc khai thác càng trở nên khó khăn hơn trong điều kiện thị

trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trước tình hình đó đòi hỏi các công ty
phải tổ chức tốt khâu khai thác. Đối với Bảo Minh mục tiêu và cũng là thước
đo hiệu quả của khâu khai thác là xây dựng và phát triển một thị trường bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ổn định lâu dài và tăng trưởng cao, để làm
được điều đó công ty càn phải làm được một số việc sau:
Vào đầu năm các nhân viên của phòng bảo hiểm hàng hải phải thu thập
được thông tin về kim ngạch xuất nhập khẩu như chủng loại hàng hoá, số
lượng hàng hoá của từng công ty xuất nhập khẩu, qua đó sẽ tập hợp số liệu để
lập kế hoạch khai thác và định mức thu phí trong năm cho các đối tượng. Đối
với khách hàng mới thì các cán bộ phải tìm cách tiếp cận để tìm hiểu về
ngành hàng, nhóm hàng, cách thức đóng gói chất xếp, luồng vận chuyển. Các
nhân viên phải tìm cách tiếp cận được với những khách hàng này cho họ thấy
sự hiện diện của công ty và giúp họ hiểu hơn về sản phẩm mà công ty có thể
cung cấp. Cụ thể Phòng hàng hải phải chuẩn bị tài lêịu chào phí kèm theo
điều kiện bảo hiểm, các báo cáo tài chính trong số năm gần đây để chứng
minh cho họ thấy vị thế cũng như khả năng tài chính của doanh nghiệp.
Thông qua tư vấn giúp đỡ các công ty xuất nhập khẩu lựa chọn các điều kiện
bảo hiểm phù hợp.
Đối với khách hàng cũ, các khách hàng truyền thống, các nhân viên
phải thuyết phục được họ tiếp tục hợp đồng một cách tự nguyện. Lượng khách
hàng truyền thống này sẽ đảm bảo cho công ty một doanh thu ổn định. Một
công ty bảo hiểm có lượng khách hàng truyền thống chiếm tỉ lệ cao chứng tỏ
chất lượng dịch vụ của công ty là rất tốt và biểu phí phù hợp.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch, công ty Bảo Minh Hà Nội thường
xuyên cử nhân viên nhắc nhở khách hàng mua bảo hiểm theo đúng thời gian
quy định, đồng thời hướng dẫn họ mua bảo hiểm hết phần kim ngạch nhập về
theo giá FOB, CIF và phần kim ngạch xuất theo giá CIF. Mặt khác theo dõi số
liệu về hàng hoá xuất nhập khẩu của từng đơn vị và đối chiếu khối lượng
khách hàng mua bảo hiểm, nếu tỷ lệ hàng hoá được bảo hiểm so với kim
ngạch mà thấp thì Tổng công ty còn phải tìm ra lý do để có sự điều chỉnh phù

hợp. Tỷ lệ phí là mối quan tâm lớn của khách hàng. Đối với hàng hoá xuất
nhập khẩu giá trị rất lớn chỉ cần một tỷ lệ nhỏ trong phí cũng là một khoản phí
rất lớn. Vấn đề đặt ra cho phòng hàng hải là phải nắm vững cách thức tính
phí, các yếu tố cấu thành nên phí cũng như là đối tượng được bảo hiểm để
tính mức phí phù hợp nhất. Đến cuối năm phòng hàng hải tổng kết tập hợp số
liệu để tính ra một số chỉ tiêu hiệu quả khai thác, từ đó đề ra một chiến lược
khai thác cho năm nghiệp vụ mới.
* Cấp đơn bảo hiểm:
Khi nhận được giấy yêu cầu bảo hiểm, phòng hàng hải phải xem xét
việc cấp đơn theo trình tự sau:
a. Kiểm tra chứng từ và đánh giá rủi ro
- Đánh giá rủi ro:
+ Đây là bước nghiên cứu để dự kiến mức độ rủi ro có thể xảy ra đối
với lô hàng và tàu trong suốt hành trình.
+ Đối với tàu chở hàng, các cán bộ khai thác của công ty phải xem xét
kỹ các yếu tố sau:
o Thứ nhất: quốc tịch của tàu và chủ tàu. Điều này có ảnh hưởng rất
lớn đến độ an toàn của hành trình. Chẳng hạn tàu có quốc tịch Đông Âu
thường xảy ra tổn thất thấp hơn tàu của các vùng khác.
o Thứ hai: là nếu tàu được bảo hiểm thân tàu tại Bảo Minh thì kiểm
tra xem tổng giá trị của tàu và hàng có vượt quá phân cấp 11 triệu USD hay
không ? Trường hợp vượt quá sẽ thông báo cho phòng tái bảo hiểm để thu xếp
nhượng tái.
o Thứ ba: là khả năng tài chính của chủ tàu, nếu chủ tàu có khả năng
tài chính tốt thì ít xảy ra tranh chấp.
o Thứ tư: tuổi của tàu. Đối với tàu già, khả năng gây tổn thất sẽ tăng
lên thậm chí không đủ khả năng đi biển. Trong trường hợp này cần thu thêm
phụ phí tàu già. Nếu khách hàng nhập hàng theo giá CIF thì khai thác viên đề
nghị khách hàng áp đặt vấn đề của tàu và bảo lưu quyền đòi lại phí tàu già
trên hợp đồng mua bán. Đối v ới hàng hoá bảo hiểm các nhân viên cần phải

xem xét các vấn đề sau: Vấn đề thứ nhất là loại hàng (bao gồm chủng loại,

×