Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tình hình triển khai nghiệp vụ bào hiểm XNK vận chuyển bằng đường biển part2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.09 KB, 11 trang )

trị bảo hiểm (bảo hiểm dưới giá trị) hoặc mua bảo hiểm với số tiền bảo hiểm
lớn hơn giá trị bảo hiểm (bảo hiểm trên giá trị).
Về nguyên tắc số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn hoặc bằng giá trị bảo
hiểm, nếu số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm thì phần lớn hơn thực
chất chỉ là bảo hiểm phần lãi dự kiến. Ngược lại nếu số tiền bảo hiểm nhỏ hơn
giá trị bảo hiểm tức là người được bảo hiểm tự bảo hiểm lấy một phần thì
người bảo hiểm cũng chỉ bồi thường trong phạm vi số tiền bảo hiểm sẽ bồi
thường theo tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm.
Nếu đối tượng bảo hiểm được bảo hiểm trùng nghĩa là cùng một rủi ro
cùng một giá trị bảo hiểm nhưng lại bảo hiểm tại nhiều công ty thì trách
nhiệm của các công ty bảo hiểm cũng chỉ giới hạn trong số tiền bảo hiểm.
Như vậy, số tiền bảo hiểm cùng với điều kiện bảo hiểm sẽ giới hạn trách
nhiệm của các công ty bảo hiểm đối với các hợp đồng bảo hiểm.
c. Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm là một khoản tiền nhỏ mà người được bảo hiểm phải trả
cho người bảo hiểm để được bồi thường khi có tổn thất do các rủi ro được bảo
hiểm gây ra. Thực chất phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm bảo hiểm.
Phí bảo hiểm thường được tính trên cơ sở xác suất rủi ro gây ra tổn thất
hoặc trên cơ sở thống kê tổn thất nhằm đảm bảo trang trải bồi thường và đảm
bảo có lãi. Căn cứ thứ hai rất quan trọng khi tính phí là giá trị bảo hiểm hoặc
số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm (P) được xác định như sau:
R
R
aFC
P *
1
)1(.)(



 (Nếu bảo hiểm có lãi dự tính)


Hay RCIFR
R
FC
P **
1



 (Nếu không bảo hiểm lãi dự tính)
Tỉ lệ phí bảo hiểm được ghi trong hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận
giữa người tham gia bảo hiểm và người bảo hiểm.
3.3. Điều kiện bảo hiểm:
Điều kiện bảo hiểm là những điều quy định phạm vi trách nhiệm của
người bảo hiểm đối với tổn thất của hàng hoá. Hàng được bảo hiểm theo điều
kiện bảo hiểm nào, chỉ những rủi ro tổn thất quy định trong điều kiện đó mới
được bồi thường. Sau đây là các điều kiện bảo hiểm của Viện những người
bảo hiểm Luân Đôn (Institute of London Underwriters - ILU).
a. Hệ điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1963:
Ngày 01/01/1963, ILU xuất bản ba điều kiện bảo hiểm hàng hoá là FPA,
WA và AR. Các điều kiện bảo hiểm này được áp dụng rộng rãi trong hoạt
động thương mại quốc tế.
* Điều kiện bảo hiểm FPA (Free from Particular Average) - (Điều kiện
bảo hiểm miễn tổn thất riêng).
Trách nhiệm bảo hiểm của FPA bao gồm:
- Tổn thất toàn bộ do thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại
cảng lánh nạn thuộc tổn thất riêng.
- Tổn thất bộ phận vì thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển hoặc dỡ hàng tại
cảng lánh nạn do rủi ro chính đem lại.
- Mất nguyên kiện hàng trong quá trình xếp dỡ, chuyển tải.
- Bồi thường các chi phí sau:

+ Chi phí đóng góp tổn thất chung.
+ Chi phí cứu nạn.
+ Chi phí đề phòng, hạn chế tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm do người
thứ ba không phải là người được bảo hiểm hay người làm công của họ gây
nên.
+ Chi phí giám định tổn thất nếu tổn thất này do rủi ro được bảo hiểm
gây ra.
+ Chi phí tố tụng khiếu nại.
* Điều kiện bảo hiểm WA (With Particular Average) - (Điều kiện bảo
hiểm tổn thất riêng).
Theo điều kiện bảo hiểm WA, công ty bảo hiểm đề ra mức miễn thường
và giải quyết theo các nguyên tắc sau:
- Không đề cập mức miễn thường tổn thất do rủi ro chính, rủi ro chiến
tranh, đình công và các rủi ro phụ do con người gây ra.
- Không cộng tác chi phí để đạt mức miễn thường, chỉ tính tổn thất thực
tế.
- Được tính các tổn thất liên tiếp xảy ra để đạt mức miễn thường.
- Mỗi sà lan được coi là một con tàu để tính mức miễn thường.
-Người được bảo hiểm có quyền chọn cách tính mức miễn thường có lợi
nhất cho mình để được bồi thường nhiều hơn.
* Điều kiện bảo hiểm AR (All Ricks) - (Điều kiện bảo hiểm mọi rủi ro)
Phạm vi bảo hiểm của điều kiện bảo hiểm AR ngoài các rủi ro tổn thất và
chi phí của điều kiện bảo hiểm WA thì còn mở rộng thêm các rủi ro phụ.
Người bảo hiểm không áp dụng mức miễn thường.
b. Hệ điều kiện bảo hiểm ra đời năm 1982.
Ngày 01/01/1982, ILU xuất bản các điều kiện bảo hiểm mới thay thế các
điều kiện bảo hiểm hàng hoá mới bao gồm:
- Institute Cargo Clauses C (ICC-C) - Điều kiện bảo hiểm C.
- Institute Cargo Clauses B (ICC-B) - Điều kiện bảo hiểm B.
- Institute Cargo Clauses A (ICC-A) - Điều kiện bảo hiểm A.

- Institute War Clauses C - Điều kiện bảo hiểm chiến tranh.
- Institute Strikes Clauses C (ICC-C) - Điều kiện bảo hiểm đình công.
Nội dung cụ thể của các điều kiện bảo hiểm mới như sau:
* Điều kiện bảo hiểm C (Institute Cargo Clauses C - ICC-C).
-> Rủi ro được bảo hiểm (Ricks covered): trừ các rủi ro loại trừ được quy
định dưới đây, điều kiện này bao gồm:
- Cháy hoặc nổ.
- Tàu bị mắc cạn, chạm đất, bị đắm hoặc lật úp.
- Tàu đâm va nhau hoặc tàu, sà lan, phương tiện vận chuyển đâm va phải
vật thể khác không phải là nước.
- Dỡ hàng tại cảng lánh nạn
- Tổn thất chung.
- Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản
hai tàu đâm va nhau đều có lỗi (Both to Blame Collisim Clause) quy định
trong hợp đồng vận tải.
-> Rủi ro loại trừ (Exclusions).
Trong mọi trường hợp, người bảo hiểm không bồi thường những rủi ro
sau đây:
- Tổn thất hay tổn hại do hành vi xấu, cố ý của người bảo hiểm.
- Rò rỉ, hao hụt thông thường về trọng lượng, khối lượng hoặc hao mòn
tự nhiên của đối tượng bảo hiểm.
- Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do bao bì đầy đủ hoặc không thích hợp.
- Mất mát, hư hỏng hoặc hci phí do nội tỷ (Inherent vice) hoặc bản chất
của đối tượng bảo hiểm.
- Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí mà nguyên nhân là chậm trễ, cho dù
chậm trễ là do một rủi ro được bảo hiểm gây nên.
- Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do tình trạng không trả được nợ hoặc
thiếu thốn về mặt tài chính của chủ tàu, người quản lý tàu, người thuê tàu
hoặc người khai thác tàu.
- Thiệt hại cố ý hoặc sự phá hoại cố ý đối tượng được bảo hiểm do hành

động phạm pháp của bất kỳ người nào.
- Mất mát, hư hỏng hoặc chi phí do việc sử dụng bất kỳ một vũ khí chiến
tranh nào có dùng đến năng lượng nguyên tử, hạt nhân hoặc các chất phóng
xạ.
- Trong mọi trường hợp, bảo hiểm này không bảo hiểm những mất mát,
hư hỏng hoặc hi phí do tàu hoặc xà lan không đủ khả năng đi biển; tàu, xà lan,
các phương tiện vận tải khác, container, toa xe không thích hợp cho việc vận
chuyển an toàn hàng hoá bảo hiểm mà người được bảo hiểm hoặc người làm
công của họ đã biết tình trạng không đủ đi biển hoặc không thích hợp đó vào
lúc xếp hàng lên các phương tiện và công cụ vận tải nói trên.
- Tổn thất xảy ra do chiến tranh, nội chiến, cách mạng, nổi loạn, khởi
nghĩa hoặc hành động thù địch gây ra bởi hoặc chống lại một thế lực tham
chiến.
- Tổn thất do bị chiếm giữ, tịch thu, bị bắt, bị kiềm chế (không kể cướp
biển) và hậu quả của những hành động đó.
- Tổn thất do bom, mìn, ngư lôi hoặc các vũ khí chiến tranh khác còn sót
lại trong các cuộc chiến tranh.
- Tổn thất được gây ra bởi người đình công, công nhân bị cấm xưởng
hoặc những người tham gia gây rối loạn lao động, bạo động hoặc nổi loạn.
- Tổn thất xảy ra do bạo động chính trị, động cơ chính trị.
* Điều kiện bảo hiểm B (ICC-B)
Ngoài những rủi ro được bảo hiểm như điều kiện còn bảo hiểm thêm các
rủi ro sau đây: động đất, núi lửa phun, sét đánh, nước cuốn khỏi tàu; nước
biển, sông, hồ xâm nhập vào hầm tàu, xà lan, phương tiện vận tải, container,
toa xe hoặc nơi chứa hàng, tổn thất nguyên kiện hàng do rơi khỏi tàu hoặc
trong quá trình xếp dỡ.
Các điều kiện giống như điều kiện C.
* Điều kiện bảo hiểm A (ICC-A)
- Rủi ro được bảo hiểm: mọi mất mát hoặc hư hỏng của đối tượng bảo
hiểm trừ các rủi ro loại trừ dưới đây.

- Rủi ro loại trừ: cơ bản giống như điều kiện B và C, trừ rủi ro "thiệt hại
cố ý hoặc phá hoại". Rủi ro này vẫn được bồi thường theo điều kiện A.
Các nội dung khác: giống như điều kiện bảo hiểm B và C.
3.4. Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển.
a. Khái niệm và tính chất của hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là một văn bản trong đó người bảo hiểm cam kết bồi
thường cho người được bảo hiểm những mất mát, thiệt hại của đối tượng bảo
hiểm do một rủi ro được bảo hiểm gây nên còn người được bảo hiểm cam kết
trả phí bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là giấy tờ có giá trị pháp lý cao, nó quy định quyền
lợi và nghĩa vụ của các bên và là cơ sở quan trọng để giải quyết tranh chấp,
khiếu nại sau này.
Hợp đồng bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển mang tính
chất là một hợp đồng bồi thường (contract of indemnity) và là một hợp đồng
tín nhiệm (contract of good faith). Thể hiện như sau:
- Khi tổn thất xảy ra do các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo
hiểm sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm nhằm khôi phục lại vị thế tài
chính của họ. Đây là tính chất bồi thường của hợp đồng bảo hiểm.
- Tính chất tín nhiệm thể hiện ở chỗ:
+ Phải có lợi ích bảo hiểm (Insurable interest) mới ký kết hợp đồng bảo
hiểm. Lợi ích bảo hiểm không nhất thiết phải ký kết hợp đồng nhưng phải có
khi xảy ra tổn thất.
+ Người được bảo hiểm phải thông báo mọi chi tiết về hàng hoá, mọi
thay đổi làm tăng hoặc giảm rủi ro cho người bảo hiểm biết.
+ Khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, nếu hàng hoá đã bị tổn thất mà người
được bảo hiểm đã biết thì hợp đồng bảo hiểm sẽ vô hiệu lực, ngược lại người
được bảo hiểm chưa biết hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm coi như được ký kết khi người bảo hiểm chấp nhận
văn bản. Văn bản đó là đơn bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm. Chúng

là chứng từ có thể lưu thông được (Negotiable) và có thể chuyển nhượng
được cho người khác bằng cách ký hậu.
b. Các loại hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm được chia làm 2 loại: hợp đồng bảo hiểm chuyến và
hợp đồng bảo hiểm bao.
* Hợp đồng bảo hiểm chuyến (Voyage Policy):
Hợp đồng bảo hiểm chuyến là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng
từ một nơi này đến một nơi khác ghi trên hợp đồng bảo hiểm. Trách nhiệm
của người bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm bắt đầu và kết thúc theo điều
khoản "từ kho đến kho". Hợp đồng bảo hiểm chuyến thể hiện bằng đơn bảo
hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm do công ty bảo hiểm cấp. Đơn bảo hiểm
và giấy chứng nhận bảo hiểm đều có giá trị pháp lý như nhau nhưng về hình
thức và cách sử dụng có khác nhau.
Nội dung của đơn bảo hiểm gồm hai mặt:
Mặt 1 ghi các chi tiết về hàng hoá, tàu, hành trình, người bảo hiểm và
người được bảo hiểm, thường gồm các nội dung sau đây:
- Tên, địa chỉ của người bảo hiểm và người được bảo hiểm.
- Tên hàng, số lượng, trọng lượng, số vận tải.
- Tên tàu, ngày khởi hành.
- Cảng đi, cảng đến, cảng chuyển tải.
- Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm.
- Điều kiện bảo hiểm (ghi rõ theo quy tắc nào, của nước nào).
- Tỷ lệ phí bảo hiểm, phí bảo hiểm.
- Nơi và cách thức bồi thường.
- Ngày tháng, chữ ký của công ty bảo hiểm, phương thức và địa điểm trả
tiền bồi thường. Trong trường hợp nơi đến của khách hàng ghi trong đơn bảo
hiểm là một địa điểm nằm sâu trong nội địa, nghĩa là sau khi đến cảng cuối
cùng phải chuyển tiếp bằng phương tiện khác đến địa điểm đã định và đến
đây mới hết trách nhiệm của người bảo hiểm, trong trường hợp này phải tăng
thêm phụ phí bảo hiểm vì ngoài rủi ro trên đoạn đường phụ trong toàn bộ

hành trình được bảo hiểm.
Mặt 2 in sẵn quy tắc, thể lệ bảo hiểm của Công ty bảo hiểm có liên quan.
Giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ có nội dung như mặt 1 của đơn bảo hiểm.
Để thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ, ngày ghi trên đơn
bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm không được muộn hơn ngày xếp hàng
lên tàu hoặc ngày nhận hàng để chở, loại tiền phải giống loại tiền trong thư tín
dụng trừ khi có quy định khác.
Khi xuất trình để thanh toán, phải xuất trình trọn bộ (Full set) hoặc một
bản gốc duy nhất (A sole original) cho ngân hàng.
* Hợp đồng bảo hiểm bao (còn gọi là hợp đồng bảo hiểm mở) - (Open
policy, Floating policy, Open cover).
Hợp đồng bảo hiểm bao là hợp đồng bảo hiểm nhiều chuyến hàng trong
một thời gian nhất định, thường là một năm. Đối với các chủ hàng có khối
lượng hàng hoá xuất nhập khẩu lớn và ổn định, thông thường họ ký kết với
công ty bảo hiểm một hợp đồng bảo hiểm bao, trong đó người bảo hiểm cam
kết sẽ bảo hiểm tất cả các chuyến hàng xuất nhập khẩu trong năm.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao hai bên chỉ thoả thuận với nhau những vấn
đề chung như: tên hàng được bảo hiểm, loại tàu chở hàng, cách tính giá trị
bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối đa cho mỗi chuyến và điều kiện bảo hiểm, cách
thức thanh toán phí bảo hiểm và tiền bồi thường cấp chứng từ bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm bao có lợi ích cho cả người bảo hiểm và người được
bảo hiểm. Người bảo hiểm đảm bảo tu được khoản chi phí bảo hiểm trong
thời hạn bảo hiểm. Người được bảo hiểm vẫn được bồi thường nếu tàu đã bị
tai nạn rồi mà chưa kịp thông báo bảo hiểm, phí bảo hiểm rẻ hơn.
Trong hợp đồng bảo hiểm bao có thể quy định một hạn ngạch của số tiền
bảo hiểm (Floating policy), khi hết số tiền bảo hiểm đó hợp đồng sẽ hết hiệu
lực.
Trong hợp đồng bảo hiểm bắt buộc phải có 3 điều kiện cơ bản sau:
- Điều kiện xếp hạng tàu được thuê chuyên chở hàng hoá sẽ được bảo
hiểm. Tàu phải có cấp hạng cao và nếu do 10 hãng đăng kiểm nổi tiếng trên

thế giới cấp mới được chấp nhận một cách tuyệt đối. Tàu có khả năng đi biển
bình thường và tuổi tàu thấp hơn 15 năm.
- Điều kiện về giá trị bảo hiểm, người được bảo hiểm phải kê khai giá trị
hàng theo từng chuyến về số kiện, giá CIF hoặc giá FOB, số hợp đồng mua
bán, số thư tín dụng L/C, ngày mở giá trị L/C, số vận đơn B/L.
- Điều kiện về quan hệ tinh thần thiện chí nghĩa là đã mua bảo hiểm bao
của người bảo hiểm nào thì trong thời gian đó không được phép mua bảo
hiểm hàng hoá của người khác.
Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm bao, mỗi lần vận
chuyển hàng hoá người tham gia vận chuyển phải gửi giấy báo vận chuyển
cho người bảo hiểm. Sau khi cấp đơn bảo hiểm thấy có điều gì cần phải bổ
sung thì thông báo cho công ty bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ cấp giấy bảo
hiểm bổ sung, giấy này có giá trị bằng đơn bảo hiểm và không thể tách rời
khỏi đơn bảo hiểm.
3.5. Công tác giám định – bồi thường tổn thất:
a. Công tác giám định tổn thất
Giám định tổn thất là việc làm của các chuyên viên giám định, của
người bảo hiểm hoặc của các Công ty giám định được người bảo hiểm uỷ
quyền nhằm xác định mức độ và nguyên nhân của tổn thất, làm cơ sở cho việc
bồi thường. Giám định tổn thất được tiến hành khi hàng hoá bị hư hỏng, đổ
vỡ, thiếu hụt, giảm phẩm chất, thối… Ở cảng đến hoặc tại cảng dọc đường và
do người được bảo hiểm yêu cầu. Những tổn thất như do tầu đắm, hàng mất,
giao thiếu hàng hoặc không giao thì cũng không cần phải giám định và cũng
không thể giám định được.
Mục đích của giám định tổn thất là:
- Xác định loại tổn thất, nguyên nhân gây ra tổn thất cho hàng hoá.
Giám định giúp xác rõ loại tổn thất là do hư hỏng, đổ vỡ, thiếu hụt hay
ẩm mốc… Nguyên nhân tổn thất có nhiều loại, có thể do bốc xếp cẩu thả, do
đâm va, bão lụt, do thông giờ không tốt, do bản thân hàng bị ẩm ướt…
- Xác định trách nhiệm tổn thất thuộc về ai.

Giám định chính xác, trung thực kết quả nói lên người phải chịu trách
nhiệm và bồi thường tổn thất cho hàng hoá, khiến họ không thể từ chối trách
nhiệm của mình. Đó có thể là người mua, người bán, người vận tải, người bảo
hiểm hoặc cơ quan giao nhận cảng.
- Giám định tổn thất là cơ sở tiến hành khiếu nại đòi bồi thường và giải
quyết khiếu nại.
Yêu cầu của công tác giám định tổn thất phải:
- Kịp thời đầy đủ, trung thực và kết quả nhằm xác định chính xác
nguyên nhân tổn thất.
- Bám sát hiện trường để phản ánh được cụ thể tình hình tổn thất của tài
sản bảo hiểm.
- Có ý kiến tham gia với người nhận hàng trong các khâu: cứu chữa, xử
lý hàng hư hỏng, để phòng và giảm nhẹ tổn thất, bốc dỡ giao nhận, yêu cầu về
bao bì hàng hoá khiếu nại người thứ ba có trách nhiệm đối với hàng hoá tổn
thất.
b. Công tác bồi thường tổn thất.

×